This site uses cookies.
Some of these cookies are essential to the operation of the site,
while others help to improve your experience by providing insights into how the site is being used.
For more information, please see the ProZ.com privacy policy.
Freelance translator and/or interpreter, Verified site user
Data security
This person has a SecurePRO™ card. Because this person is not a ProZ.com Plus subscriber, to view his or her SecurePRO™ card you must be a ProZ.com Business member or Plus subscriber.
Affiliations
This person is not affiliated with any business or Blue Board record at ProZ.com.
Open to considering volunteer work for registered non-profit organizations
Rates
Vietnamese to English - Rates: 0.05 - 0.15 USD per word English to Vietnamese - Rates: 0.05 - 0.15 USD per word Japanese to Vietnamese - Rates: 0.07 - 0.15 USD per character / 20 - 30 USD per hour
Access to Blue Board comments is restricted for non-members. Click the outsourcer name to view the Blue Board record and see options for gaining access to this information.
Source text - Vietnamese
The Promise
WHEN LI KA-SHING AND HIS FAMILY arrived in Hong Kong in 1940 -just one small clan among 600,000 refugees escaping Guangdong province and Japan's reign of terror- the colony was very much a place for celebrating royal jubilees, imperial accessions and birthdays. Entertainment at Government House, on Upper Albert Road, still centered around dances for a racially segregated, political and social class of chauffeur- and rickshaw-driven British colonials.
Next to India, Hong Kong was the second most prominent jewel in Britain's star-studded imperial crown. Though it was not officially a British colony until June 26, 1843, Hong Kong was, for all practical purposes, already under the flag of the British Empire; the declaration of British sovereignty was made on January 26, 1841, as a result of a joint agreement between Charles Eliot, Britain's superintendent of foreign trade, and Qishan, the governor-general of Guangdong.
To British foreign secretary Lord Palmerston, however, to appropriate Hong Kong without any other Chinese territories was tantamount to seizing a mere "Barren Island” with hardly a house on it."2 Palmerston wanted more. And so, by replacing Eliot with Henry Pottinger in 1841, Palmerston found someone who would be prepared to use all military might to coerce the Chinese into granting guarantees. Eventually, of course, the colony would include more than just a thirty-two-square-mile island. By 1860, Hong Kong would absorb the three and half square miles comprising a peninsula called Kowloon, as well as Stonecutters Island.
And by 1898, the Qing government would lease, for a period of ninety-nine years, a 355-square-mile area north of Hong Kong Island known as the New Territories. In 1842, however, Palmerston simply wanted to ensure that Hong Kong belonged to the British, free of any obligations or encumbrances. Sure enough, in the end, and to the dismay of the Qing court, Article 3 of the
Treaty of Nanjing would read: "The Island of Hong Kong to be possessed in perpetuity by Victoria and her successors and ruled as they shall see fit."*
Not that the British had ever previously doubted they could do with Hong Kong as they saw fit. Hong Kong was the twin product of western opium dealers and the British addictive predilection for tea. As the British demand for tea increased in the late seventeenth century, British traders were prompted to pay for the aromatic concoction and such other Chinese products as silk and rhubarb with silver. These silver transactions not only caused an enormous deficit in favor of the Qing court in Beijing, but also consternation in British merchant and diplomatic circles. But the loss of British silver was short-lived. Discovering through Portuguese merchants that some Chinese officials craved "foreign mud," better known as opium, the British East India Company, which had a trade monopoly in Asia and was therefore allowed to trade in Guangzhou, just northwest of Hong Kong, started to smuggle illegal opium into China. Of all the drug dealers, the wealthiest were William Jardine and James Matheson, who later formed Jardine Matheson & Co., which for a long time was the largest commercial house in Hong Kong- that is, until Li Ka-shing displaced it from its number-one spot with his own company.
While illegal importation of drugs into China made for some heady profits, the drug dealers knew that China, with its population of 400 million, was a potential monetary colossus if opium could ever be made legal. Even if only a fraction of the Chinese took one pipe, the profits could be dizzying and unfathomable. In 1838, with addiction widespread and growing, a Chinese official sized up the rising popularity of opium this way: "Opium smoking was [once] confined to the fops of wealthy families who took up the habit as a form of conspicuous consumption. Later, people of all social strata- from government officials and members of the gentry, to crafts makers, merchants, entertainers and servants and even women, Buddhist monks and nuns and Daoist priests- took up the habit."'
To maximize their profits, the British needed a war. Citing the recalcitrant nature of the Qing court as an impediment to their entrepreneurial ambitions, British merchants enlisted their powerful navy to smash open the dynastic doors to the China market, and with the sinking of three Chinese gunboats on November 3, 1839, the Opium War commenced. The war would not only alter
the fate of China and Britain forever, by ultimately forcing a transfer of ownership in Hong Kong, they would also affect the fate of the whole of Asia, as well as its relationship with the West.
6 China certainly lost the war because its woefully inadequate sea power was pitted against Britain's mighty navy. But in the end, what won the war for Britain was that it really "wanted" China. It had that fire in the belly, that intangible conviction that it alone was right in all its thoughts and actions. For its part, the Qing court made the mistake of seeing the British as uncouth barbarians from an obscure, insignificant and inferior vassal state occupying some small European island. Unfortunately for China, its officials paid little attention to the might of these men from a faraway place. The consequence of such Chinese arrogance was not just a loss of their empire, but also the beginning of the end for an imperial way of life that was eventually extinguished with the fall of the Qing dynasty and the establishment of the Republic of China in 1912.
To the British, meanwhile, Hong Kong was more than a leisurely Asian backwater in their colonial empire, and profit was not the only item on the minds of its British masters. Hong Kong was more a state of mind for Britain because it was the British who first thought of it as a living organism envisioned, created and developed within the imperial ideal of western superiority and Chinese savagery and decadence. The British believed they would raise the level of civilization for the "substandard" Chinese. Indeed, they reasoned that Hong Kong could become a kind of human laboratory in a world governed by British men schooled in the Darwinian theory of the survival of the fittest, the concepts of free enterprise, western enlightenment, liberalism, democracy, rationality, linear thinking and scientific inquiry. Hong Kong's success as a colony within British imperial designs would legitimize the very existence of colonial rule. The idea was simple: create a prosperous colony that would provide not only large profits for British firms, but also jobs for Britain's unemployed. A well-governed colony would then parcel out its benefits to the colonized Chinese so that they could partake of the "magnificence" of colonial life. It would have an immensely civilizing effect on the Chinese.
Translation - English LỜI HỨA
Khi Lí Khả Sinh cùng gia đình của mình đến Hồng Kông năm 1940, gia đình ông chỉ là một gia đình nhỏ trong 600 nghìn người tị nạn trốn chạy khỏi tỉnh Quảng Đông và khỏi sự khủng bố của phát xít nhật. Mảnnh đất Hông Kông lúc ấy chỉ là thuộc địa của những lễ kỉ niệm đặc biệt của Hòang Gia Anh, những bữa tiệc thăng chức về và của những bữa tiệc sinh nhật. Trung tâm những cuộc giải trí tại nhà Quốc hội trên đường Albert Road vẫn là những buổi dạ hội của những tên thực dân Anh phân biệt chủng tộc, phân biệt giai cấp xã hội và chính trị của những người tài xế và những người đánh xe tay.
Sau Ấn Độ, Hồng Kông là vùng đất giàu nhất của một triều đại của Anh có nhiều người xuất chúng. Dù không chính thức là thuộc địa của đế quốc anh cho mãi đến 26 tháng 6 năm 1843 nhưng Hồng Kông vì nhiều mục đích và lý do khách quan đã trở thành một vùng đất của đế quốc Anh. Đế quốc Anh tuyên bố chủ quyền của mình đối với Hồng Kông vào ngày 26 tháng 1 năm 1841. Đây là kết quả của cuộc đàm phán giữa Charles Eliot, thanh tra bộ thương mại anh và Qishan, viên tòan quyền tỉnh Quảng Đông.
Tuy nhiên đối với Ngoại trưởng Anh Lord Palmerson Hồng Kông nếu không có các vùng lãnh thổ khác của Trung Quốc chỉ là một hòn đảo cằn cỗi dân cư thưa thớt. Điều mà Palmersom muốn còn nhiều hơn thể. Vào năm 1841, với việc thay thế Eliot bằng Herry Porttinger, Palmerson đã tìm thấy người đáng tin cậy - người này sẽ được chuẩn bị kĩ lưỡng để sử dụng sức mạnh quân sự nhằm ép phía Trung Quốc chấp nhận quyền bảo hộ của Anh. Thực chất của vấn đề là vùng đất thuộc địa sẽ không còn là một hòn đảo rộng 32 dặm vuông. Đến năm 1860 Hồng Kông tiếp nhận thêm 3.5 dặm vuông nữa của bán đảo Cửu Long và của đảo Stonecutters. Đến năm 1898, nhà Thanh sẽ cho người Anh thuê một khu vực rộng 355 dặm vuông ở phía bắc Hồng Kông được biết đến như một lãnh thổ mới trong 99 năm. Tuy nhiên vào năm 1842 Palmerson đơn giản chỉ muốn bảo đảm rằng Hồng Kông thuộc quyền kiểm soát của người Anh mà không phải chịu bất kì một ràng buộc, trách nhiệm hay một sự phiền toái nào. Cuối cùng thông qua việc khống chế nhà Thanh mà điều thứ 3 trong hiệp ước Nan Ninh được sửa lại như sau: “đảo Hồng Kông sẽ thuộc sở hữu của nữ hòang Victoria và những người kế vị của bà và được cai trị vì họ thấy phù hợp với thực tế”.
Không chỉ có người Anh từng nghi ngờ về những gì mà họ có thể làm với Hồng Kông khi họ nhìn thấy thời cơ. Hồng kông vừa là sản phẩm của những người buôn bàn thuốc phiện châu Âu vừa là sản phẩm của những người Anh chuộng sản phẩm từ cây chè. Khi nhu cầu về chè của người Anh tăng lên vào cuối thế kỉ 17 những lái buôn Anh ngay lập tức được yêu cầu đổi các đồ uống pha chế có mùi thơm và các sản phẩm khác từ Trung Quốc như lụa, cây đại hòang để lấy bạc. những thương vụ trao đổi bạc này không chỉ gây nên những thâm hụt ngân khố lớn đối với triều đình nhà Thanh mà còn gây ra nỗi khiếp sợ cho những thương nhân người Anh và các vòng đàm phán ngoại giao. Nhưng thiệt hại về bạc của những người Anh chỉ diễn ra trong thời gian ngắn. Thông qua những thương nhân người Bồ Đào Nha một công ty Anh ở Đông Ấn Độ - công ty độc quyền thương mại ở châu Á và tất nhiên được phép giao dịch thương mại ở Quảng Châu, phía bắc của Hồng Kông biết rằng một vài quan lại trong triều nhà Thanh thèm muốn thứ “bùn ngoại” hay thuốc phiện nên đã bắt đầu buôn lậu thuộc phiện vào Trung Quốc. Trong những trùm buôn lậu thuốc phiện phải kể đến hai người giàu nhất là William Jardine và James Matheson – những người lập nên công ty Jardine Matheson & Co. Công ty này trong suốt một thời gian dài là công ty thương mại lớn nhất tại Hồng Kông cho đến khi bị công ty của Lí Khả Sinh đánh bật ra khỏi vị trí đầu bảng.
Khi những vụ buôn lậu thuốc phiện vào Trung Quốc mang lại lợi nhuận khiến người ta điên đảo thì những người buôn thuốc phiện hiểu rằng Trung Quốc với hơn 400 triệu dân là một mỏ tiền khổng lồ nếu như việc buôn bán thuốc phiện là hợp pháp. Nếu như chỉ một phần dân số Trung Quốc nghiện thuốc phiện thì lợi nhuận thu được sẽ không ổn định và đóan định. Năm 1838, hiện tượng nghiện hút tăng nhanh và lan rộng đến mức một quan chức người Trung Quốc đã đánh giá mức độ phổ biến của thuốc phiện như sau:” Hút thuốc phiện đã từng là thú vui của các công tử nhà giàu – những người có thói quen dùng nó như một các tiêu dùng quý phái và thường thấy của các cậu ấm. Sau đó mọi tầng lớp trong xã hội từ các quan chức chính phủ, thành viên của các các gia đình thượng lưu cho đến các thợ thủ công, thương nhân, nhũng người trong ngành giải trí, người hầu và thậm trí cả phụ nữ, thầy tu, ni cô, linh mục cũng cần đến thứ bùn ngoại. ”
Để tối đa hóa lợi nhuận người Anh cần một cuộc chiến tranh. Sự cứng nhắc của triều đình nhà Thanh là một trở ngại cho những tham vọng thầu khóan của mình các thương nhân người Anh đã tham gia vào lực lượng quân đội đầy hùng mạnh để đập tan rào cản từ cánh cửa của triều Thanh để bước vào thị trường Trung Hoa đầy tiềm năng. Vào ngày 3 tháng 11 năm 1839 uộc chiến tranh thuốc phiện đã nổ ra với sự kiện 3 tàu chiến của Trung Quốc bị bắn chìm. Cuộc chiến tranh này không chỉ thay đổi số mệnh của Anh và Trung Quốc mà còn ảnh hưởng đến số mệnh của tòan Châu Á cũng như quan hệ của Anh, Trung Quốc với các nước phương tây khi nó cố gắng tạo ra sụ chuyển giao chủ quyền đối với Hồng Kông.
Trung Quốc hòan tòan thua cuộc vì sức mạnh không tương xứng của hải quân Trung quốc đã bị sức mạnh hùng hậu của hải quân Anh đánh tan tác. Nhưng cuối cùng các mà Anh muốn cho chiến thắng trong cuộc chiến này là Anh muốn Trung Quốc là thuộc địa của mình. Có một ngọn lửa thiêu đốt lòng dạ của người Anh – một cái niềm tin mơ hồ là nước Anh đã đúng trong ý nghĩ và trong hành động của mình. Về phần mình, triều đình nhà Thanh đã mắc sai lầm khi coi những người Anh như kẻ mọi rợ không có văn minh đến từ một nước nhỏ bé, tầm thường, là chư hầu và chỉ chiếm một diện tích không đáng kể ở châu Âu. Thật không may cho Trung quốc, các quan lại thời bấy giờ lại không mấy mặn mà quan tâm tới sức mạnh của những người ở xa tới. Hậu quả cho tính tự kiêu của người Trung quốc là họ không chỉ mất đi đế chế của mình mà còn mở đầu cho việc kết thúc của một đế chế hùng mạnh bằng sự kiện nhà Thanh hòan toàn sụp đổ và sự ra đời của Cộng hòa Trung Hoa vào năm 1912.
Trong khi đó đối với người Anh, Hồng Kông không hơn gì một vũng nước châu Á tù đọng phẳng lặng trong các vùng đất thuộc địa của mình. Và lợi nhuận là thuật ngữ duy nhất trong ý nghĩ của những ông chủ người Anh. Hồng Kông còn hơn là một nhà nước trong ý nghĩ đối với nước Anh vì người Anh là những người đầu tiên coi Hồng Kông như là thực thể sống được hình dung, sáng tạo nên và được phát triển trong một đế chế lý tưởng của một sức mạnh phương tây và sự suy đồi cũng như sự tàn bạo của người Trung quốc. Người Anh tin rằng họ có thể nâng cao trình độ văn minh của những người Trung Quốc mông muội. Thực ra họ lý giải rằng Hồng Kông có thể trở thành một kiểu phòng thí nghiệm con người trong một thế giới bị chi phối bổi những người Anh lĩnh hội học thuyết của Đac-uyn về sự tồn tại của sự phù hợp, những khái niệm về công ty tự do, một châu Âu khai sáng, chủ nghĩa tự do, dân chủ, lẽ phải, suy nghĩ tuyến tính và những đòi hỏi khoa học. Thành công của Hồng Kông như là một thuộc địa trong các thiết kế của đế quốc Anh sẽ hợp pháp hóa sự tồn tại của luật thuộc địa. Ý tưởng thật đơn giản: tạo ra một thuộc địa phồn vinh không chỉ mang lại lợi nhuận lớn cho các công ty của Anh mà còn tạo công ăn việc làm cho những người Anh thất nghiệp tại chính quốc. Một thuộc địa được điều hành tốt sẽ chia nhỏ lợi nhuận của nó cho những người Trung Hoa bị lệ thuộc, và tiếp sau họ có thể cùng nhau tận hưởng sự “tráng lệ và phồn thịnh” của cuộc sống thuộc địa. Điều này sẽ có ảnh hưởng lớn đến việc truyền bá văn minh cho người Trung quốc.
Vietnamese to English: dịch về chăn nuôi
Source text - Vietnamese VI.3.Lợi thế và hạn chế của ngành chăn nuôi Hà Tây:
* Lợi thế:
- Có vị trí liền kề với thủ đô Hà Nội nơi có nhu cầu tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi lớn của cả nước, giao thông nối với cảng biển và hàng không thuận lợi.
- Có vùng đồng bằng, bãi ven sông, đồi gò bán sơn địa cho nên có thể phát triển chăn nuôi đa dạng.
- Hà Tây có nhiều cơ sở nghiên cứu trung tâm giống của Trung ương thuận lợi trong nghiên cứu ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất.
- Lực lượng lao động cán bộ có trình độ khá, đa số người sản xuất đã tiếp cận làm quen với thị trường Hà Nội.
* Hạn chế:
- Tiềm lực kinh tế còn thấp nguồn vốn trong dân, mức độ tiêu dùng nội tỉnh không cao tích lũy các ngành phi nông nghiệp còn thấp cho nên việc hỗ trợ cho chăn nuôi và ngành nông nghiệp nói chung còn hạn chế.
- Mật độ dân số cao, tài nguyên tự nhiên hạn chế, đất nông nghiệp không nhiều lại nằm trong vùng thoát lũ cho Hà Nội nên bố trí mở rộng quy mô sản xuất bị chi phối ở nhiều yếu tố, để sản xuất bền vững đòi hỏi cần nhiều nỗ lực.
- Do sản xuất và chủng loại sản phẩm của Hà Tây có cùng chung tập quán và hướng phát triển của nhiều tỉnh trong vùng, nên tính cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm khó và dễ bị rủi ro, cung vượt quá cầu.
- Yêu cầu phát triển công nghiệp dịch vụ du lịch cao, đô thị hóa tăng cho nên nhiều địa phương có truyền thống kinh nghiệm sản xuất thu hẹp muốn mở rộng sản xuất hàng hóa đòi hỏi đầu tư phát triển vùng xa hơn.
VI.4. Vai trò, vị trí của ngành chăn nuôi trong những năm tới
- Chiếm vị trí cao trong ngành chăn nuôi cả nước, đặc biệt chăn nuôi lợn, chăn nuôi lợn đứng vị trí số 1.
- Góp phần quan trọng thúc đẩy, quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, tăng tỷ trọng giá trị sản xuất ngành cao hơn ngành trồng trọt.
- Là ngành sản xuất thu hút lao động dư thừa trong nông nghiệp đồng thời cũng là ngành sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả trong xu thế đất nông nghiệp suy giảm, do công nghiệp đô thị phát triển.
- Chăn nuôi vẫn còn là ngành đứng vị trí số 1 trong nông nghiệp tỉnh có giá trị sản xuất hàng hóa tiêu thụ ở thị trường ngoài tỉnh đặc biệt thị trường Hà Nội.
- Là ngành đòi hỏi ưu tiên trong đầu tư ứng dụng TBKT, công nghệ sản xuất tiên tiến và hình thành những cơ sở quy mô lớn.
Phần thứ Ba
DỰ BÁO CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGÀNH CHĂN NUÔI HÀ TÂY
I. THỊ TRƯỜNG
I.1. Thị trường trong nứơc
I.1.1. Tiêu dùng hiện nay
I.1.1.1. Mức tiêu dùng nội tỉnh:
- Mức thu nhập giữa người thu nhập cao và thu nhập thấp ở nông thôn chênh lệch là 9,4 lần, ở thành thị là 14,2 lần và xu hướng bất bình đẳng về thu nhập sẽ tăng cao.
- Mức tiêu dùng về thịt trứng sữa đã được cải thiện đáng kể song chủ yếu tăng về thịt, trong các loại thịt chủ yếu là thịt lợn, thịt gia cầm còn chưa được sử dụng nhiều, đặc biệt thịt trâu bò mức tiêu dùng còn quá hạn chế. Tổng hợp chung mức tiêu dùng bình quân về thịt đạt từ 70 – 75gam/ngày /người (tương đương với 25 – 26 kg thịt xô/người/năm). Lượng thịt hơi tiêu dùng nội tỉnh 90 – 95 ngàn tấn chiếm 51 – 55% sản lượng thịt hơi sản xuất ra trong năm. Thịt lợn chiếm trên 82%, thịt gia cầm chiếm 8-15%, thịt bò chỉ từ 3-5%.
Như vậy lượng thịt lợn tiêu dùng nội tỉnh 77,9 ngàn tấn – 80,0 ngàn tấn, thịt gia cầm 8,6 – 9,0 ngàn tấn, thịt trâu bò 2,7 – 2,8 ngàn tấn. Lượng trứng tiêu thụ nội tỉnh vào khoảng 87 – 100 triệu quả chiếm 46% sản lượng trứng sản xuất. Lượng sữa tươi tiêu dùng nội tỉnh không nhiều khoảng 5% còn lại là thông qua chế biến tiêu thụ ngoài tỉnh mặt khác lại nhập các loại sữa đáp ứng nhu cầu địa phương.
I.1.1.2. Tiêu thụ ngoài tỉnh:
Sản phẩm tiêu thụ ngoài tỉnh dưới nhiều hình thức khác nhau và do tư nhân đảm nhiệm tham gia là chính hoặc người sản xuất hoặc người lái buôn thu gom (tỷ lệ người sản xuất tự tìm kiếm thị trường tiêu thụ chiếm tỷ lệ thấp).
Người thu gom có thể giao hàng tại các chợ đầu mối từ đó được tiêu thụ tại các điểm bán trong thành phố Hà Nội (cũng không ít các thương lái liên kết đảm nhiệm từng công đoạn giao mối từ cổng trại đến thị trường bán lẻ). Mỗi chủ lò (chủ vựa) thường tạo cho mình những vệ tinh để ổn định nguồn hàng hàng ngày đến lò mổ hoặc trạm trung chuyển. Nếu chủ thương lãi và chủ nuôi có mối quan hệ tốt ứng trước 30 – 50 giá trị số còn lại người chăn nuôi sẽ trả bằng sản phẩm thì kết quả sản xuất và tiêu thụ tốt hơn.
Một phương thức được đánh giá cao ở Hà Tây là liên kết giữa công ty CP Group hay các xí nghiệp giống, cơ sở nghiên cứu của nhà nước với các trang trại dạng hợp tác này được hợp đồng tương đối cụ thể hơn cho nên đã thu hút nhiều gia đình đầu tư phát triển lợn ngoại, gà. Đặc biệt liên doanh với công ty CP group vẫn được duy trì khá tốt như ở Sơn Tây, Quốc Oai, Chương Mỹ, Thường Tín... người sản xuất không phải lo lắng tiêu thụ sản phẩm đồng thời họ được trợ giúp về kinh tế chất lượng con giống và thức ăn. Ngoài ra, đã có doanh nghiệp trong nước đầu tư sản xuất với quy mô lớn tạo được mối tiêu thụ thúc đẩy hình thành những cơ sở vệ tinh hạn chế được nhược điêm của phương thức thu gom. Đây sẽ là phương thức cần được phát triển trong tương lai. Trên cơ sở lập bảng cân đối sản phẩm (nguồn cung, tiêu dùng nội địa, sản phẩm tiêu thụ ngoại tỉnh) cho thấy khối lượng sản phẩm tiêu thụ ngoại tỉnh năm 2004 là: Thịt các loại từ 80 – 85 ngàn tấn/năm trong đó thịt lợn 73 – 76 ngàn tấn, thịt gia cầm 7 – 8 ngàn tấn, thịt bò từ 900 – 1000 tấn, trứng 100 – 120 triệu quả.
I.1.2.Dự báo nhu cầu tiêu dùng
- Mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm của một số nước trung bình trong khu vực đạt trên 2300 kcal/ngày/người, trong đó, sản phẩm động vật đạt 244 kcal, chiếm tới 10,8% và có nước đạt cao như Nhật trên 2800 Kcalo/ng/ng trong đó đạm động vật đạt 540kcal bằng 19% tổng năng lượng. (Trong vòng một thập kỷ nhiều nước đã tăng mức tiêu dùng sản phẩm động vật gấp hai lần, trung bình như Thái Lan có tốc độ tăng 2,3%/năm).
- Theo các quan điểm của các nhà dinh dưỡng học đối với Việt Nam, mức tiêu dùng hiện nay đã được như một số nước có điều kiện tương tự, đạt 2300kcal/ng/người. Trong vòng 10 – 15 năm tới có mức tiêu dùng đạt 2700 – 2800 kg/ng/ng ngoài hướng tăng mức năng lượng yêu cầu quan trọng là tăng hàm lượng protit, có nguồn năng lượng động vật chiếm từ 12% hiện nay lên trên 16% trong đó từ sản phẩm thuỷ sản chiếm 20% còn lại 80% từ các nguồn sản phẩm ngành chăn nuôi.
- Theo quan điểm các nhà nghiên cứu chiến lược phát triển nông nghiệp, nhu cầu tiêu dùng trong nước sản phẩm gạo, ngô có xu thế giảm, sản phẩm thịt, cá, đậu tương tăng, trong đó sản phẩm thịt tăng 7% năm 2005 - 2010 và đạt 5,3% giai đoạn 2010 - 2020, gâp 1,26 lần thể hiện ở bảng sau:
Bảng 19. Dự báo nhu cầu cả nước một số nông sản chính
- Theo nhóm chuyên gia của UNDP giúp VN nghiên cứu phát triển 5 ngành hàng công nghiệp trong đó có công nghiệp chế biến thực phẩm, cho rằng nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm thực phẩm tại thị trường nội địa phụ thuộc vào 2 yếu tố chính: Một là tỷ lệ tăng dân số, hai là “hệ số co dãn” tiêu dùng của loại thực phẩm đó (“Hệ số co dãn” tiêu dùng của một loại thực phẩm là tỷ số giữa mức tăng bình quân hàng năm lượng tiêu dùng sản phẩm đó chia cho mức tăng bình quân hàng năm về thu nhập quốc dân). Theo nhóm chuyên gia này, “hệ số co dãn” đối với sản phẩm gạo xấp xỉ là 0,35, cà phê là 1,5; thuỷ sản 1,05. Riêng đối với sản phẩm thịt sữa của Việt Nam dao động dưới 1. Ví dụ hiện tại mức tiêu dùng sữa bình quân đầu người của Việt Nam còn ở mức thấp so với các nước trên thế giới và khu vực, lượng sữa bình quân đầu người của ta, mới đạt ở khoảng 6kg/người, trong khi đó tại các nước phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Thuỵ Điển, Đức, Thuỵ Sĩ, ý, Hà Lan... mức tiêu thụ đạt từ 80 – 100kg/người. Bởi vậy trong 10 năm tới, nhu cầu tiêu dùng sữa của thị trường nội địa còn gia tăng theo đà phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên mức tăng đột biến với “hệ số co dãn” là 1,42 như ở giai đoạn 1990 – 1995 sẽ không xảy ra, nhưng sẽ lớn hơn chỉ số 0,75 và có khả năng xấp xỉ bằng 1. Theo dự báo của Viện Chiến lược – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mức tăng trưởng thu nhập thời kỳ 2001 – 2010 sẽ là 7,25%/năm. Nếu “hệ số co dãn” về nhu cầu sữa trong thời kỳ trên là 0,95 thì mức tăng trưởng về tiêu thụ sữa tại thị trường nội địa trong 10 năm tới sẽ đạt khoảng 6,9%/năm.
Thông qua thực tiễn sản xuất tiêu thụ, định phướng phát triển kinh tế xã hội tốc độ tăng dân số, tốc độ tăng GDP của tỉnh Hà Tây đến năm 2010... dự báo tốc độ tăng nhu cầu tiêu dùng thịt xô các loại, trứng, sữa thể hiện ở bảng sau:
Bảng 20. Dự báo nhu cầu tiêu dùng nội tỉnh
I.2. Thị trường xuất khẩu
I.2.1.Tình hình xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi của nước ta
Vào những năm trước 1990, sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là thịt lợn. Vào đầu những năm 1990 sản phẩm thịt bò, vịt được gia tăng. Năm cao nhất xuất được trên 5 ngàn tấn thịt bò, 1400 tấn thịt vịt đưa khối lượng thịt xuất khẩu đạt gần 23 ngàn tấn. Nhưng từ năm 1992 đến 1999 lượng sản phẩm xuất khẩu giảm chỉ bằng 20 – 45% so với năm cao nhất. Từ năm 1997 có triển vọng gia tăng xuất khẩu bằng những năm 1993, 1994. Tuy nhiên chưa có năm nào có giá trị kim ngạch trên 30 triệu UDS/năm (năm 2000 giá trị kim nghạch xuất khẩu đạt 25,5 triệu USD).
Bảng 21. Tình hình xuất khẩu các sản phẩm vật nuôi 1990 – 2000
Trước đây, thị trường xuất khẩu thịt chủ yếu cho Liên Xô cũ, từ 1986 – 1992 bình quân mỗi năm xuất sang đó trên 7300 tấn, những năm nhập nhiều lên tới 20.000 tấn, chiếm 98% tổng khối lượng xuất của ta (1991), tuy nhiên giá trị xuất khẩu thịt hàng năm chỉ chiếm 5% tổng giá trị hàng hoá Việt Nam xuất sang Liên Xô ngoài ra có thị trường Bungari, chủ yếu được thực hiện từ năm 1990 trở về trước, năm cao nhất mới xuất được trên 900 tấn, từ năm 1991 đến nay, hầu như Bungari không còn là thị trường tiêu thụ thịt của ta. Thay vào đó là thị trường Hồng Kông, Nam Triều Tiên... Như Hồng Kông có năm nhập khẩu trên dưới 1500 tấn, chiếm 12% tổng khối lượng thịt xuất khẩu, tiếp đó là thị trường Nam Triều Tiên trên 1200 tấn, bằng 9 – 10%. Các loại mặt hàng này được bán dưới dạng đông lạnh và đóng gói theo quy cách. Ngoài ra, cũng có một số hợp đồng buôn bán thịt lợn sang Singapor, Lào và thịt lợn nạc sang Hà Lan. Tuy nhiên, tất cả các hợp đồng này đều dựa trên nghị định về thú y tạm thời và nói chung không ổn định.
Ngoài sản phẩm chính, sản phẩm lông, da cũng được tận thu sơ chế xuất khẩu, sản phẩm lông vịt trong mấy năm gần đây tăng khá, từ 591 tấn (1991) lên 1800 tấn (1995) và đạt 2940 tấn (1997), 2 năm qua xuất khẩu lông vịt giảm . Sản phẩm da trâu bò cũng được coi là sản phẩm quan trọng vào những năm 1986 – 1987 da trâu bò là một sản phẩm xuất sang Thái Lan 484 tấn với giá trị 154 triệu Bath tương đương với 6 triệu USD, chiếm 51 – 52% giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Thái Lan. Mấy năm gần đây, công nghiệp giầy da trong nước phát triển nên có lúc thu mua với giá cao hơn giá xuất cho Thái Lan.
I.2.1.1.Các thị trường xuất khẩu thịt lợn chủ yếu của vùng ĐBSH và cả nước
Bảng 22. Kết quả xuất khẩu thịt lợn Việt Nam (Theo các thị trường chính)
Bảng 23. Xuất khẩu sản phẩm thịt tinh chế 2001- 2003
I.2.1.2. Gia cầm
Nhìn chung sản phẩm gia cầm tham gia xuất khẩu không nhiều, đặc biệt khi mất thị trường xuất khẩu thịt vịt và trứng vịt muối. Thông qua con đường tiểu ngạch qua các cửa khẩu đường bộ năm 2003 ta xuất được 77 tấn gà sống trị giá 143 ngàn USD, thịt gà sơ chế 16 tấn đạt 70 ngàn USD giá trị cao sản phẩm từ trứng đạt 3,2 triệu USD ước tính các sản phẩm gia cầm đạt 3,4 triệu USD. (Riêng gia cầm sống cứ 2 năm mới xuất một lần). Trước kia khối lượng nhập khẩu gia cầm không nhiều qua con đường tiểu ngạch có khoảng 30 - 50 tấn nhưng vào các năm gần đây khối lượng giá trị tăng lên đáng kể như năm 2003 nhập sản phẩm gà thịt đạt 1,06 triệu USD trứng 198 ngàn USD với kết quả trên cho thấy sản phẩm gia cầm được trao đổi buôn bán chưa có ý nghĩa lớn và được liệt kê vào những loại nông sản phẩm chính phục vụ xuất khẩu của nước ta. Việc trao dổi buôn bán hoàn toàn tự phát mang tính cục bộ và không có hợp đồng sản xuất tiêu thụ nhiều lúc còn gây xáo trộn sản xuất tiêu thụ trong nước. Đây là hạn chế lớn đối với ngành chăn nuôi gia cầm. Lợi thế chăn nuôi gia cầm có vòng quay nhanh, chi phí thức ăn cho 1kg tăng trọng thấp không được phát huy.
I.2.2.Xu hướng của thị trường thế giới
Thị trường thịt toàn cầu đạt mức tăng từ giữa thập kỷ 90, chủ yếu do tăng tốc độ cao của lĩnh vực sản xuất thịt gia cầm và thịt lợn, trong khi mức tiêu dùng thịt bò bình quân đầu người hầu như không tăng. Trong số các yêu tố chính ảnh hưởng đến ngành thịt là mức giá thức ăn gia súc thấp là một yếu tố rất quan trọng. Bên cạnh đó, thu nhập dân cư tăng và tiến trình đô thị hoá đã khuyến khích xu hướng tăng nhu cầu tiêu thụ.
Dịch bò điên ở châu âu, bệnh LMLM ở Đài Loan, bệnh cúm gia cầm ở Hong kong đã buộc các nước sản xuất phải huỷ diệt hàng loạt đàn gia súc có nguy cơ lây nhiễm và buộc các nước tiêu thụ phải tăng cường biện pháp an toàn thực phẩm đã gây nên những xáo trộn lớn trong cán cân cung cầu của thị trường thịt toàn cầu.
Trên thị trường quốc tế, tỷ trọng của EU trong tổng lượng xuất khẩu toàn cầu đã giảm do các chính sách hỗ trợ xuất khẩu buộc phải loại bỏ dần . Trong khi đó, nhập khẩu của Nhật bản có xu hướng tăng lên cùng với chính sách giảm thuế nhập khẩu. Việc thực hiện những điều khoản của "thoả thuận về các biện pháp an toàn về kiểm dịch thực phẩm" mở ra cơ hội mới cho các nhà xuất khẩu tại những khu vực không bị dịch bệnh. Sự phục hồi của thị trường các nước có nền kinh tế chuyển đổi - Trung Âu, Đông Âu và Liên xô cũ sau một thời gian suy giảm trong thời kỳ bắt đầu cải cách - cũng là những dấu hiệu khả quan trở thành khu vực nhập khẩu chính. Các hiệp định khu vực như NAFTA cũng đem lại những cơ hội để cải thiện cơ sở hạ tầng cho ngành chăn nuôi và chế biến thịt trong khu vực.
I.2.2.1.Thịt bò
II.2.2.2.Thịt lợn
II.2.2.3. Thịt gia cầm
Khi chưa có nạn dịch cúm gia cầm, chăn nuôi gia cầm là lĩnh vực phát triển nhất trong ngành chăn nuôi với mức tăng bình quân 5,6%/năm, nhờ chính sách hợp lý hoá sản xuất thức ăn gia súc.Thịt gia cầm đã thay thế thịt bò và trở thành thực phẩm quan trọng thứ hai tại nhiều nước trên thế giới, chủ yếu do mức giá thấp so với các loại thịt khác, do độ an toàn thực phẩm cao cũng như do được chấp nhận trong tín ngưỡng của nhiều nước. Mức tiêu thụ bình quân đầu người dự báo sẽ tăng 3,4%/năm tiêu thụ bình quân đầu người ở các nước đang phát triển tăng gần gấp đôi. Tốc độ tăng trưởng đạt mức cao nhất ở các nước Châu Á.
Nhập khẩu của các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi đóng góp một phần quan trọng trong buôn bán gia cầm. Một phần quan trọng trong buôn bán gia cầm Trung Quốc sẽ là nước nhập khẩu nhiều các sản phẩm gia cầm giá rẻ như chân gà và cánh gà, trong khi xuất khẩu một khối lượng lớn các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Hong Kong, Singapo cũng là những nước nhập khẩu lớn trong khi nhập khẩu của Đài Loan hạn chế hơn. Nhập khẩu của Nga dự báo sẽ tăng lên gấp đôi để đáp ứng nhu cầu nội địa gia tăng. Mức gia tăng nhập khẩu chủ yếu được thoả mãn nhờ nguồn cung cấp từ Mỹ - nước sẽ chiếm tới 47% tổng sản lượng xuất khẩu. Giá xuất khẩu bình quân đối với thịt gia cầm dự báo sẽ tăng 2,5%, chủ yếu do giá thức an gia súc tăng lên. Tuy nhiên do dịch cúm gia cầm phát sinh trên diện rộng đã ảnh hưởng rất lớn đến cung cầu và giá các sản phẩm gia cầm. Có thể trong kỳ ngắn hạn chưa có giải pháp phòng trừ triệt để nguồn cung tăng chậm làm cho tốc độ về giá tăng cao.
II.2.2.4. Sữa và sản phẩm sữa
I.2.3. Triển vọng xuất khẩu của Việt Nam
Nghiên cứu dự báo khả năng xuất khẩu trong tương lai xa là rât khó, nhất là đối với Việt nam, thiếu cả kinh nghiệm và cơ sở dữ liệu, chuyên gia giỏi...cộng với việc tổ chức nghiên cứu không được đầu tư thích đáng, cho nên các dự báo chủ yếu mang tính tiếp cận mục tiêu kinh tế của đất nước và thông qua chọn lụa các ngành có ưu thế xác định vai trò của mỗi ngành hàng xác định khối lượng giá trị cần đạt cho năm dự kiến. Biẻu dưới đây có thể tham khảo: vai trò xuất khẩu sản phẩm thịt không phải thấp - chăn nuôi ở ĐBSH vẫn coi trọng nhất là ĐBSH là nơi có vị trí cao trong xuất khẩu.
Bảng 24 .Dự báo xuất khẩu gạo, thịt Việt Nam (2000 - 2020)
II. KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Khoa học công nghệ là đòn bẩy, là động lực để phát triển nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH, chỉ có xây dựng và phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao mới nâng được sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá. Đến nay giống tốt đạt tiêu chuẩn chất lượng của nước ta chiếm 30%, trong đó giống lúa chất lượng cao 30%, chè 30%, ngô 65%, điều 25%, bò lấy thịt 40%. Tỷ lệ lợn nạc chiếm 30%. Những năm gần đây các vùng nguyên liệu nông lâm thuỷ sản gắn kết hợp lý hơn với các trung tâm, các cụm, các cơ sở chế biến tạo được sản phẩm xuất khẩu, tiêu dùng có chất lượng khá, giá trị tổng sản lượng công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản chiếm 35% tổng giá trị của ngành công nghiệp chế biến và có tốc độ tăng trưởng cao 12 - 14%/năm.
II.1. Tiến bộ về dinh dưỡng, thức ăn
- Sử dụng cỏ Alfafa khô nhập từ Hoa Kỳ với giá 700 đ/kg để thay thế thức ăn thô ở vùng phụ cận nuôi bò sữa.
- ủ chua cây ngô với một trong các tỷ lệ 4% bột sắn, hoặc cám gạo hay 1,5% rỉ mật 1% cám gạo bảo quản 6 tháng (có thể thay thế 48% cỏ xanh).
- bảo quản rơm tươi từ 3 - 5 tháng bằng bổ sung hỗn hợp vi khuẩn láctíc (E1, E2, E3) với tỷ lệ 0,5%, rit mật 5%, muối ăn 0,5% thay thức ăn xanh nuôi bò sữa (8-9 kg/con/ngày) không ảnh hưởng đến năng suất sữa, (xã Đồng Tháp, Đan Phượng đã làm).
- Trồng sắn xen với đậu Flemingia cho năng xuất vật chất khô và protein cao và ổn định hơn trồng sắn thuần, đồng thời sử dụng ngọn lá sắn khô thay thế cám hỗn hợp trong khẩu phần nuôi dê từ 18- 20% hay bổ sung 2 kg lá sắn khô vào khẩu phần tức ăn của bò sữa với nền thức ăn thô chủ yếu là rơm.
- Dùng chế phẩm BIO-C và BIO-D không thua kém sản phẩm nhập cùng loại với giá bằng 1/3 giá nhập. Bổ sung BIO-C cho nuôi bê với liều 50 g/con/ngày có tăng trong cao hơn không cho ăn, từ 48-50 g/ngày nếu cho bò sữa dùng BIO-D làm tăng sản lượng sữa 0,6 kg/con/ngày.
- Sử dụng ngô HQ2000 (QPM) có hàm lượng protein 10,6% trong chăn nuôi lợn và gia cầm vừa tiết kiệm 11- 12% thức ăn protêin giá cao, nếu đối với gà giảm 0,3 kg thức ăn cho 1 kg tăng trọng, rút ngắn thời gian nuôi lợn từ 10 - 14 ngày tăng thu nhập 1 đầu lợn từ 24 - 67 ngàn đồng/con (đã ứng dụng ở trại chăn nuôi Đan Hoài, Đan Phượng).
- Nuôi lợn nái ngoại trong giai đoạn nuôi con, với khẩu phần 18% protein, 0,95% lizin, 0,53% Methionime Cystin, 0,61% threoninem 0,15% trytophan là hiệu quả nhất.
- Bổ sung men Porzynme 9302 với lượng 0,1% vào cám gạo giảm chi phí thức ăn nuôi lợn thịt từ 3,4 - 6,9% cải thiện độ dày mỡ lưng từ 4 - 8% (giai đoạn 50 - 100 kg chỉ nên sử dụng 25% cám).
- Sử dụng bánh dinh dưỡng urê rỉ mật có chứa hoá dược(fenbedazol ở mức 0,59 gam/1 kg bánh dinh dưỡng/con/ngày hoặc bột lá dứa chiếm 15% bánh 15 ngày cho ăn một lần sẽ giảm tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng đường ruột ở bò sữa, bò thịt tới 70% làm tăng khả năng tăng trọng.
Translation - English VI.3.Advantages and limitations of animal husbandry sector in Ha Tay
* Advantages:
- Positioned adjacent to the capital Hanoi where there is a high breeding product demand and convenient traffic connecting to seaports and airports.
- Having many deltas, alluvial grounds and half-mountain half-plain areas so Ha Tay can develop animal diversity.
- Ha Tay has many stated-owned breeding research centers on so it is very favorable to do research and apply new technologies into production
- Labour force and officials are fairly level, most producers have accessed and familiarized Hanoi market.
* Limitations
- Potential economic capital is still low in population, the provincial consumption level is not high and the accumulation of non-agricultural sectors is still low so their support for husbandry and agriculture generally is limited.
- High population density, limited natural resources and agricultural land and being in the flood area close to Hanoi so expanding the production scale is dominant by many factors and to produce sustainably demands more effort.
- Due to production and kinds of products of Ha Tay have the same practices and development tendencies with many provinces in the region, so products deal with a tough competitiveness and easily get risk; supply can exceeds demand.
- Due to the request to develop high industrial tourism services and urgent urbanization so many locals with traditional experience in producing want to expand production requiring investment to develop the area further.
VI.4. The role and position of animal husbandry sector in next few years
- Occupy high position in the national livestock sector, particularly in raising pigs, pig raising ranked position No. 1
- Contribute to promoting the process of converting the plant-animal structure, increase in production value of breeding sector higher cultivation.
- Being manufacturing sector attracting excess labor force in agriculture as well as industry using agricultural lands effectively in the agricultural land decreased and by industrial urban development.
- Livestock sector is still ranked No. 1 position in the provincial agriculture which has goods production value consumed in markets outside the province, particularly in Hanoi market
- Be a sector requiring priority investment for applying technical equipments, advanced production technology and forming large-scale business.
Part III
Forecasting Factors influencing to the development of Ha Tay animal husbandry sector
I. Market
I.1. Domestic market
I.1.1. Existing consumption
I.1.1.1.inter-provincial consumption level
Income difference between high income and low income in rural is 9.4 times, in the city is 14.2 times and the unequal income trend will be increased.
- Level consumption on milk, egg and meat has increased significantly but mainly in meat. The popular kind of meat consumed is mainly pork while poultry meat and cattle meat have not been used much and consumption level is so limited. The general average consumption level of meat has reached 70 - 75gam/day/person (equivalent with 25 - 26 kg meat buckets/person/year). The volume of meat consumption in the province is from 90 to 95 thousand tons accounting for 51 - 55% of meat production in a year. Pork makes up 82% the above volume, meats and poultry accounting for 8 - 15%, beef only from 3-5%.
Thus, pork consumption quantity inside the province is from 77.9 thousand tons to 80.0 thousand tons, poultry meat from 8.6 to 9.0 thousand tons, cattle meat from 2.7 to 2.8 thousand tons. Egg consumption volume in the province is approximate 87 to 100 million accounting for 46% of egg production. Fresh milk consumption volume in the province is only about 5% and the rest is processed and consumed outside the province to import other kinds of milk to meet local needs.
I.1.1.2. outer-provincial consumption level
Products are major consumed outside the province under various forms and undertaken by various private or consumed by the producers and trafficking drives (the percentage of producers looking for self-consumption market accounted low-rate).
Merchants may delivery to wholesale markets from which animal husbandry products are consumed in shops in Hanoi (many merchants are also responsible for each delivery stage from the producers to retail markets. Each slaughter holder often creates its own supplier web to stabilize the animal sources for the slaughters or intermediates everyday. If the merchants and the producers have a good relationship, producers can advance from 30% to 50% of the sale contracts and the rest of the contracts, the producers will pay by products so that the production effectiveness and consumption level can be improved.
One method highly appreciated in Ha Tay is the link between CP Group Company or other breeding factories, stated owned research centers with farms. This cooperation forms have the relatively specific contract so it has attracted many families to invest and develop pig and chicken raisings. Specially cooperating relation with CP group company is remained quite good as in Son Tay, Quoc Oai, Chuong My, Thuong Tin ... producers do not worry about consuming the products and at the same time they are supported in terms of economy with good quality of seed and food. In addition, there have been domestic enterprises to invest production with large-scale created consumption markets to promote a web of retailer to solve the limitations of collection methods. This method should be developed in the future. Based on creating the product balance sheets (supplying sources, provincial consumers, outer-provincial consumption) which showed that the volume of products consumed outside the province in 2004 was: all kinds of meat from 80 to 85 thousand tons / year in which the pork 73 to 76 thousand tons, poultry meat from 7 to 8 thousand tons, beef at 900 - 1000 tons, eggs from 100 to 120 million results.
I.1.2 forecasting the consumption demand
- Food consumption level of some average countries in the region reached 2,300 Kcal/day/person, in which, animal products reached 244 Kcal accounting for 10.8% and some countries such as Japan with high 2800 Kcalo/day/person in which the animal protein is 540kcal equal to 19% of total energy. (Within one decade many countries have doubled animal product consumption level such as Thailand has increased the rate of 2.3% per year)
- According to the nutritionists’ viewpoints about Viet Nam, the existing consumption level in Vietnam has reached the consumption level of some countries with similar conditions with 2300kcal/day/person. Within next 10 - 15 years food consumption level will reach 2700 - 2800 kg /day/person. Besides increasing energy level, it is important to increase the protein content in which raising energy from animal products from 12% at present up to 16% of which from aquatic products accounting for 20% and the rest from products of livestock sector.
- According to agricultural development strategy researchers’ viewpoint, the domestic demands for rice, maize seems to reduce while demands for meat, fish, bean increase, in which meat products increase by 7% in 2005 - 2010 and reach 5.3% for the period 2010 - 2020, increasing 1.26 times illustrated in the following table
Table 19. Forecasting the country needs for some major agricultural products
- The group of UNDP experts, who help Vietnam doing research to develop 5 industrial good categories including food processing industry, said that food consumption levels in domestic market depended on major factors: first population growth rate, secondly the consumption elastic coefficient of that foods. (Consumption elastic coefficient of a food is the ratio between the annual average increase volume of that food and the annual average increase volume in national income). According to this expert group, elastic coefficient for rice is approximately 0.35, coffee 1.5; seafoods 1.05. For Vietnam meat and milk products this number is approximate under 1. For example, the current milk consumtion level per capita of Viet Nam is still low in compared with other countries in the world and the region. milk consumption per capita of Vietnam has just been about 6kg/person, while in developed countries like USA, UK, France, Sweden, Germany, Switzerland, Italy, Netherlands ... consumption level reached at 80 - 100kg/personi. So in the next 10 years, the demands for milk of the domestic market will be increased by the economic development momentum. However, the sudden increase once happened to elating coefficient 1.42 as at the 1990 - 1995 period will not happen, but it will be larger than 0.75 and be capable of using approximately 1. According to a forecast of the Institute of Strategy - Ministry of Planning and Investment, the earning growth in period 2001 - 2010 will be 7.25% per year. If the elastic coefficient of milk demand on that period is 0.95, the growth rate of milk consumption in domestic market in the coming 10 years will reach about 6.9% per year.
Through practical production and consumption, socio-economic growth trends, population growth rate and GDP growth rate of Ha Tay province to 2010 ... the forecast about the meat bucket growth of all kinds of meat, eggs, milk is shown in the following table:
Table 20. Forecasting the provincial consumption level
I.2. export markets
I.2.1.The export condition of our breeding products
In the years before 1990, exported products are mainly pork. In the early 1990s beef and duck products increased. The highest year was over 5 thousand tons of beef; 1,400 tons of duck meat which made meat export volume reached nearly 23 thousand tons. But from 1992 to 1999, export products decreased to only 20 - 45% compared with five highest years. From 1997 prospects of export increase by the year 1993, 1994 seemed to be clear. However, there is no year we got turnover of 30 million USD / year (in 2000 export turnover reached 25.5 million USD).
Table 21. Exporting situation of poultry products in 1990 – 2000
Previously, the meat export market was mainly former Soviet Union. From 1986 to 1992 we exported average 7,300 tons/year to Soviet Union, in the highest years import volume could reach to 20,000 tons, accounting for 98% of our total export volume (1991). However, the meat export value each year only accounting for 5% of the total value of Vietnamese goods exported to Russia besides to exporting to Bulgaria market which was mainly carried out early 1990s andd earlier. The highest year of exporting to the Bulgaria market was just only over 900 tons. from 1991 until now, Bulgaria is no longer meat main market of our meat but market of Hong Kong, South Korea has become our major market... for example there was year when Hong Kong imported over 1,500 tons, accounting for 12% of total volume of meat export. Other market is South Korea with 1,200 tons, accounting for 9 - 10%. These types of goods are sold as frozen and packaged according to specifications. In addition, there are also some of the pork trading contracts to Singapore, Laos and lean pork to the Netherlands. However, all these agreements are based on temporary veterinary decrees and generally unstable.
In addition to major products, hair and skin also take advantage to pre-process for exportation. In recent years long ducks for exportation has increased relatively from 591 tons (1991) to 1,800 tons (1995) and reached 2,940 tons (1997) but over the past 2 years long ducks export decreased. Leather products of cattle have also been considered as an important product. In the year from 1986 to 1987 cattle skin is a product exported to Thailand with 484 tons worth 154 million Bath equivalent to 6 million USD, accounting for 51 - 52% export value of Viet Nam to Thailand. Few years, our leather shoe industry is developing quickly so cattle leather can be sold with a higher price for exporting to Thailand.
I.2.1.1.major pork export market of red river delta and of the whole country
Table 22. Exporting pork of Vietnam (according to major markets)
Table 23. Processed meat export in 2001- 2003
I.2.1.2. poultry
In general, poultry products for export are not diverse, especially when lossing of export markets for duck meat and duck eggs. Through small trading ways through the land border gates in year 2003, we exported 77 tons of live chickens worth 143 thousand USD, 16 tons of pre-processed chicken worth 70 thousand USD, turnover from eggs reached 3.2 million USD and estimatedly the poultry products valued 3.4 million USD. (live poultry in particularly exported every two year). In the past, volume of imported poultry was not much and if carried out through land border gates the volume was only about 30 - 50 tons. However, in recent years the poultry export volume has been increased considerably for example in 2003 as imported chicken products reached 1.06 million USD, and eggs with 198 thousand USD. The above results show that the trading of poultry products was unpopular and listed in our agricultural export products. The exchange traders completely self-develop and because of no contract production so it still causes disorder production for domestic consumption. This is a big issue of a large poultry industry. The advantage of breeding is its fast turnarounds; the low food cost for 1kilogram weightgain was not taken advantage.
I.2.2.International market tendencies
Global meat market has increased in mid-decade 90s, mainly by high speed increase of poultry meat and pork production while the level of beef consumption per capita almost did not increase. Among the major factors affecting the meat industry, the price of food animals is the most crucial one. In addition, increase in residential income and urbanization has encouraged consumption demand to increase.
Mad cow outbreak in Europe, foot and mouth disease in Taiwan, avian influenza in Hong Kong has forced the countries producing to destroy on large scale due to the concern of infection and forced the consumption countries to strengthen food safety measures which have caused the disorder in the supply – demand balance of the global meat market.
On the international market, the proportion of the total EU export volume in the total global export volume have decreased therefore policies supporting exporters are gradually eliminated. Meanwhile, importers of Japan tend to rise along with policies reducing import duties. The implementation of agreements on measures for food safety opens new opportunities for exporters in the regions not affected by diseases. The recovery of the market countries with economic transition - Central Europe, Eastern Europe and the former Soviet Union after a decline period from the reformation - is another encouraging sign of becoming the major regional import – export markets. The regional agreements, such as NAFTA also bring opportunities to improve the infrastructure of the livestock sector and meat processing in the region.
I.2.2.1.Pork
II.2.2.2.Beef
II.2.2.3. poultry meat
When avian influenza epidemic did not ocurr, poultry farming sector is the most developed in the livestock sector with an average increase rate of 5,6% per year thank to policies for rationalizing animal food production. Poultry maet has replaced beef and food becoming second important part in many countries around the world, mainly due to low price compared with other types of meat and food safety as well as by being highly accepted for regional believes in many countries. Consumption level per capita expected to annually increase 3.4% and consumption level per capita in developing countries almost doubled. The growth rate reached the highest in Asian countries.
Import of developing countries and countries with economic transition contributes an important part to the poultry trading. An important part in the poultry trading is that china will be the country exporting many cheap poultry products such as chicken legs and chicken wings, while exporting a large quantity of high value-added products. Hong Kong and Singapore are other major importing countries while imports from Taiwan more limited. Russian imports is expected to double to meet the increase in domestic needs. Increased import Level mainly will be met through supplies from the U.S. - the country accounting for up to 47% of total export volume. Average export prices of poultry meat expected to increase 2.5%, mainly due to cattle food price increased. However, due to avian influenza arising on a large scale affected seriously to demands and poultry product prices. Perhaps, in a short time there is no comprehensive solution for this issue so a slowly increase in supply sources makes the price increasing.
II.2.2.4.milk and milk products
I.2.3. Vietnam export potential
The study predicts that exporting ability in the far future is very difficult, especially when Vietnam lack both experience and databases, excellent experts ... and the research organization is not invested adequately, so the forecast is mainly to reach the economic goals of the country and through selecting sectors which have advantages to determine the role of each goods branch and the value needed reaching in the given year. Table below may show that the vital role of exporting meat products and animal husbandry at red river delta still catches much attention because red river delta have a high position in the export.
Table 24 .Vietnam rice and meat exporting forecast (2000 - 2020)
II. Science and technology
Since science and technology as a lever, is a force to develop agriculture and rural economy in line with the modernized and industrialized orientation, only constructing and developing high-tech agriculture can improve the competitiveness of agricultural products. Up to now, good breeds obtained our standards account for 30% in which high quality rice breeds accounting for 30%, tea 30%, maize 65%, cashew 25%, cows for beef 40%. The lean pig rate accounts for 30%. In recent years, the areas of agro-forestry and fishery raw materials cooperating effectively with centers, the phrase, processing facilities have produced products for export with a high quality. Total value of processed agricultural, forestry and fishery outputs accounted for 35% of total value of processing industry and got a high growth rate with 12 - 14% per year.
II.1. progress on nutrition and foods
- Use dry grass Alfafa imported from the United States with cost 700 dong / kg to replace the unprocessed foods in surrounding areas raising dairy cows.
- Make maize plants sour with a rate of 4% cassava flour, rice bran or 1.5% molasses and 1% rice bran stored 6 months (may substitute 48% green grass).
- preserve fresh straw from 3 - 5 months by adding mixed lactic bacteria (E1, E2, E3) with the rate of 0.5%, 5% molasses, 0.5% salt replacing green food breeding for dairy cows (8-9 kg / head / day) does not affect the milk efficiency (as shown in Dong Thap, Dan Phuong communes).
- Alternatively plant cassava with Flemingia bean brings about high productivity for unprocessed foods and protein and help to stabilize than plant only cassava or bean. At the same time, use dried cassava leaves replacing mixed bran in the goat raising food proportions from 18 - 20% or supplementing 2 kg dried cassava leaves to food proportions of dairy cows based on the major food of straw.
- Use BIO-C and BIO-D products which are not worse than the same imported products with the price only one third of imported products. Add BIO-C for calf raising with the dose of 50 g / head / day show the weight increase in compared with non-fed cow, 48-50 g / day for dairy cows BIO-D showing the increase in milk output 0.6 kg / head/ day.
- Use HQ2000 maize (QPM) with 10.6% protein in raising pigs and poultry helps save 11 - 12% expensive protein foods, for chicken decreasing 0.3 kg of food for 1 kg weight increase, shorten time raising pigs from 10 - 14 days and increasing income per one pig from 24 - 67 thousand dong per head (applied in animal husbandry farming in Hoai Dan, Dan Phuong).
-Raise foreign sows in the period of raising children with a proportion of 18% protein, 0.95% lizine, 0.53% Methionime and Cystine, 0.61 % threonineme and 0.15% trytophane is the most effective.
- Add yeast Porzynme 9302 with the amount of 0.1% in rice bran help to reduce cost for pig foods from 3.4 to 6.9%, improve back fat thickness from 4 - 8% (it should be use 25% of bran in 50 - 100 kg phase).
- Use ure molasses nutrition cake containing the pharmaceutical chemistry agents (fenbedazole at 0.59 gram / 1 kg nutrition cake /head / day or pandan leave powder accounting for 15% cake, feeding every 15 days can reduce gastrointestinal germ infection rate in dairy cows and cows for beef up to 70% and increase weight of cattle.
Vietnamese to English: chăn nuôi
Source text - Vietnamese Phần thứ năm
GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
I. GIẢI PHÁP VỀ CON GIỐNG
I.1. Sản xuất giống Lợn
I.1.1. Xây dựng hệ thống giống theo mô hình hình tháp
I.1.2 Mô hình sản xuấtchính
- Lợn giống cụ kỵ: chiếm 2,3% tổng đàn lợn nái hàng năm.
- Giống ông bà:
- Giống bố mẹ chiếm tỷ lệ 83,7% tổng đàn.
I.1.3.Nhiệm vụ chỉ tiêu kỹ thuật
I.2. Sản xuất giống bò
I.2.1. Giống chuyên thịt
* Đầu tư chọn lọc, lai tạo
Bảng 38. Nhu cầu dẫn tinh viên, bình nitơ các loại
I.2.2. Giống bò sữa
I.3. Sản xuất giống gia cầm
Hiện nay toàn tỉnh có trên 180 trang trại (gồm trang trại tổng hợp và trang trại chuyên con), các trang trại chăn nuôi gia cầm chiếm 65%, chăn nuôi gà công nghiệp, trong đó, có 74 trang trại nuôi dưới 5000 con/TT, 26 trang trại có quy mô > 5000- 10000 con/TT, 14 trang trại có quy mô >10.000 - 25.000 con/TT, có 4 trang trại có quy mô > 25.000 - 40.000 con/TT (Tỷ lệ trang trại có quy mô nhỏ 10,000 con chỉ chiếm 26%, do đó cần tăng tỷ lệ có quy mô > 10.000 con/TT trong giai đoạn 2006-2010 chiếm trên 75% số trang trại). Để các trang trại đã xây dựng hiện có đạt trên 3 triệu con. Đồng thời phát triển xây dựng mới ở các xã trọng điểm cần đạt 4 triệu con, theo hướng sau: các cơ sở có quy mô trên 10.000 con có công suất 3 triệu con (trong đó loại 10 - 20 ngàn con có 45 trang trại, loại >20 -30 ngàn con có 22 trang trại, loại có quy mô trên 40 ngàn con có 13 - 15 trang trại). Loại có quy mô dưới 10 ngàn con quy mô 1 triệu con trong đó loại 5 - 10 ngàn con có 130 - 170 trang trại.
Với hướng phát triển quy mô đàn nêu trên, đến năm 2010, toàn tỉnh cần 76,5 ngàn giống bố mẹ, (nếu nuôi giống ông bà cần trên 2000 con), Năm 2020, cần 142,8 ngàn giống bố mẹ (1 mái ông bà sản xuất 36 - 37 mái bố mẹ, 1 mái bố mẹ sản xuất 110 - 120 gà thương phẩm). Do hiện nay các cơ sở Lương Mỹ, Ba Vì, Vạn Phúc, Liên doanh CP group hàng năm sản xuất 30 triệu con/năm cho nên vến đề cung ứng giống không khó khăn, việc đầu tư mới chưa cần thiết đặt ra - vấn đề cần quan tâm là trước mắt nên trợ giá cho cơ sở sản xuất giống phân tán thấp nhất đạt 20.000 con/mái bố mẹ. Sau năm 2010 tùy theo điều kiện cụ thể có thể lựa chọn cơ sở có điều kiện sản xuất giống, đầu tư mở rộng quy mô cho loại hình có quy mô trên 40 ngàn con vừa sản xuất giống vừa nuôi thương phẩm.
II. GIẢI PHÁP THỨC ĂN
II.1. Thức ăn hỗn hợp
- Để đáp ứng nhu cầu sản xuất trên 350 nghìn tấn thịt lợn hơi, 30 ngàn tấn gia cầm (2010) và đạt quy mô 600 nghìn tấn thịt lợn, 60 nghìn tấn thịt gia cầm (2020) lượng thức ăn (quy thức ăn hỗn hợp) cần gần 1,1-1,2 triệu tấn (2010) và 1,8 - 2,0 triệu tấn (2020), nếu chỉ tính nhu cầu nguồn thức ăn tinh khả năng trong tỉnh chỉ mới đáp ứng được 485 nghìn tấn vào năm 2010, như vậy vẫn còn thiếu gần 600 nghìn tấn. Xuất phát từ nguồn cung thức ăn hạn chế, nhu cầu thức ăn tăng cao, Tỉnh cần có những chính sách khuyến khích mọi thành phần tham gia và có giải pháp tổ chức quản lý hữu hiệu tạo nguồn động lực cho hệ thống màng lưới sản xuất dịch vụ cung ứng thức ăn phát triển ổn định, tránh được những rủi ro về số lượng, chất lượng thức ăn không đảm bảo đó là:
Có chính sách thuế phù hợp để các doanh nghiệp làm dịch vụ thức ăn hoạt động tích cực có hiệu quả ở Hà Tây.
Có cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực thức ăn gia súc không chỉ theo sát tình hình sản xuất cung ứng thức ăn về khối lượng và giá mà còn tư vấn cho Sở có những tác động phù hợp tránh được những bất cập xảy ra ở nguồn cung.
1. Một biện pháp tốt để hạ giá thành thức ăn trong thời kỳ đầu là chuyển giao công nghệ phối hợp thức ăn từ thức ăn đậm đặc của các hãng cho các trang trại chăn nuôi tự phối trộn theo công thức của hãng. Biện pháp này có thể hạ giá thành thức ăn từ 9 – 13% giá thức ăn hiện nay.
Xử lý nghiêm khắc các trường hợp sản xuất thức ăn chăn nuôi không đủ tiêu chuẩn như nhà sản xuất đăng ký đưa vào thị trường, các loại thức ăn giả, thức ăn có các chất kích thích gây hại cho người chăn nuôi và người tiêu thụ thịt.
Vì chất lượng thức ăn cần được xác định theo từng lứa tuổi đáp ứng tỷ lệ đạm, năng lượng, vitamine hợp lý cho nên cần phải tăng cường quản lý Nhà nước, nhất là khâu tuỳ tiện xây dựng cơ sở sản xuất thức ăn. Trong giai đoạn 2006 – 2010 chưa nên xây dựng mới.
Nguyên liệu để sản xuất thức ăn ché biến chủ yếu trong thời gian tới vẫn phải mua từ ngoài tỉnh hoặc được nhập khảu vì giá thành rẻ hơn nguyên liệu mua trong nước, nhưng để hạ giá thành cần miễn thuế nhập khẩu và ưu đãi thuế VAT. Đồng thời Tỉnh cũng cần có chính sách thúc đẩy sản xuất các loại hạt làm nguyên liệu chế biến thức ăn trên cơ sở tăng diện tích cây vụ đông cần xem xét việc giảm diện tích ngô trong kế hoạch chuyển đổi cơ cấu, quan trọng hơn là thu hút được nguồn ngô hàng hoá ở Tây Bắc, tạo điều kiện cho liên doanh sản xuất thức ăn nâng công suất.
II.2. Thức ăn thô xanh cho bò
III. GIẢI PHÁP THÚ Y
III.1. Đối với lợn :
III.2. Đối với bò:
III.3. Đối với gia cầm
Xuất phát từ thực tế 2 năm vừa qua vốn đầu tư cho công tác thú y lên tới 5,1 – 5,5 tỷ /năm, gấp 6 lần những năm 2001 đến 2003 do phòng chống dịch cúm gia cầm là chính (vào khoảng 4 tỷ đồng cho phòng chống dịch), cho nên để công tác thú y đối với gia cầm đòi hỏi vẫn còn lớn trong mấy năm tới.
Vừa qua tỉnh đã đề ra các giải pháp tổng hợp đồng bộ đạt kết quả và rút ra nhiều kinh nghiệm, nhằm sớm đưa tỷ lệ tiêm phòng đạt trên 85%, tăng cường kiểm soát giết mổ , kiểm tra vệ sinh thú y cho trên 60% gia cầm giết mổ, ...song vấn đề không thể xem nhẹ là phải giảm chăn nuôi phân tán, có chính sách khuyến khích loại quy mô trên 5 nghìn con/cơ sở để có điều kiện phòng trừ dịch bệnh, mà một trong những điều kiện cần là dành đất xây dựng chuồng trại chăn nuôi gà công nghiệp và gà thả vườn theo chỉ tiêu dự kiến đã nêu trong kỳ kế hoạch 2006 – 2010 là 230.000 m2 và đạt 340.000 m2 vào 2011-2020.
III.4. Những vấn đề chung
- Cần tiếp tục nâng cao năng lực hệ thống thú y đặc biệt thú y cơ sở về số lượng, trình độ.
- Ngoài hướng tăng cường cho các chốt kiểm dịch hiện có, các huyện cần có phương án thiết lập chốt kiểm dịch khi có dịch bệnh xảy ra tại xã và huyện tránh tình trạng bị động, hình thức
- Thực hiện quản lý 100% cửa hàng thuốc vật tư thú y
- Có chính sách hỗ trợ kinh phí phát hiện chuẩn đoán tiêm phòng và dập tắt tốt các ổ dịch, trong đó kinh phí hỗ trợ cho tiêm phòng hàng năm đạt từ 1,5 – 2,0 tỷ đồng, cho các bệnh nguy hiểm như cúm gia cầm, lở mồm long móng, dịch tả.
IV. CHỐNG Ô NHIỄM BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG:
Ngoài yêu cầu cần có giải pháp dành đất xây dựng chuồng trại để di chuyển xa khu dân cư với diện tích đã nêu ở phần đầu tư chuồng trại, yêu cầu chống ô nhiễm cần phải được thực hiện nghiêm túc, việc sử dụng xử lý phân, nước thải chăn nuôi nên ứng dụng các phương pháp :
- Xây dựng các bể lắng đọng nước thải
- Đầu tư hầm biogas
- Ao sinh học
- Tuỷ theo điều kiện có thể tách biệt hoặc hỗn hợp các biện pháp trên như: bể lắng hầm biogas ao sinh học
Hầm biogas ao sinh học
Hầm biogas thùng sục khí ao sinh học
Xử lý chất thải bằng chế phẩm sinh học đã được ứng dụng:
Chế phẩm sinh học De-ođorase 30% của Mỹ trộn vào thức ăn nó sẽ kết hợp chặt với NH3 trong chất thải của gia súc, gia cầm làm giảm mùi hôi thối trong chuồng trại
Chế phẩm EM-Bokashi là hợp chất hữu cơ lên men có công dụng khử mùi hôi thối trong chuồng trại, (xây dựng hệ thống BIOGAS theo công nghệ của Viện Chăn nuôi có thiết bị chống phủ váng bằng INOX), không những giảm thiểu ô nhiễm môi trường mà giảm tỷ lệ viêm phổi và tiêu chảy ở lợn con, viêm tử cung ở lợn nái, giảm giá thành sản xuất từ 5 - 6%.
Trước mắt các địa bàn trọng điểm cần ứng dụng làm tốt ở 5 huyện: Thanh Oai, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Thường Tín với các xã đã và sẽ có mức độ ô nhiễm cao như: Cao Viên, Đồng Mai, Phương Trung, Tân ước, Bình Minh, Thanh Mai (Thanh Oai), Minh Khai, Dương Liễu, Cát Quế, Lai Yên, Dương Nội (Hoài Đức), Hạ Mỗ, Phương Đình, Thượng Mỗ, Hồng Hà, Liên Hồng (Đan Phượng), Đại Yên, Hồng Phong, Hoà Chính, Trung Hoà (Chương Mỹ). Thư Phú, Dũng Tiến, Tô Hiệu, Khánh Hà (Thường Tín).
V. GIẢI PHÁP CHẾ BIẾN
V.1. Chế biến thịt
Hiện nay ở Hà Tây có công ty chế biến thực phẩm xuất khẩu gồm 2 cơ sở, có công nghệ chế biến khá có công suất thiết kế 3000 tấn/năm, 1 cơ sở có công suất 6-7 nghìn tấn/năm. Năm 2004 mỗi tháng chế biến xuất được 168 tấn theo báo cáo cơ sở đạt 1,7 tr USD/năm... Như vậy lĩnh vực chế biến của tỉnh còn rất khiêm tốn so với khói lượng thịt sản xuất.
Hướng xây dựng mới nhà máy chế biến thịt sẽ gắn với các địa bàn chăn nuôi cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu để tạo điều kiện liên kết chặt chẽ giữa khâu sản xuất nguyên liệu và khâu chế biến. Việc xây dựng các nhà máy mới 5000 tấn/năm/nhà máy chỉ đặt ra sau năm 2010. Trước mắt phát triển năng lực giết mổ gia cầm phân tán ở các cơ sở chăn nuôi quy mô lơn với dây chuyền sản xuất trong nước phù hợp với từng loại trang trại. Tỉnh có chủ trương hỗ trợ 30 điểm giết mổ tập trung là hoàn toàn cần thiết trong giai đoạn 2006 – 2010. Quan điểm xây dựng điểm giết mổ tập trung :
Translation - English Part 5
Major solutions
I. solutions to breeding animal
I.1. producing pig breeds
I.1.1. creating breeding systems according to pyramid model
I.1.2 major producing model
- forefather breeds account for 2,3% of the annual sow herd
- grandparent breeds:
- parent breeds account for 83,7% of the total herd.
I.1.3.tasks, target and specifications
I.2. producing cow breeds
I.2.1. cow breeds for beef
* Invest to select and create new breeds
Table 38. demand for staff to lead sterms and different kinds of nitrogen tanks
I.2.2. dairy cow breeds
I.3. producing poultry breeds
Currently there are over 180 farms (including collective farms and farms specializing in a breed kind) in the province in which poultry farms accounting for 65%. In terms of industrial chicken breeding, there are 74 farms raising under 5,000 heads / farm, 26 farms raising more than 5,000 to 10,000 heads/farm, 14 farms raising more than from 10000 to 25000 heads, 4 farms with the scale greater than from 25,000 to 40,000 head (ratio farms with a small scale less than 5000 heads accounted for 59.2%, kind of scale more than 10000 heads accounting for only 26%, so it is necessary to increase the number of farms with more than 10,000 heads per farm in the period 2006-2010 to make up 75% of the farms) and make existing farms reach 3 million children. At the same time developing new farms in key communes needs to reach 4 million chicken heads, according to the following directions: based on farms of scale on 10,000 heads with a capacity of 3 million (of which types 10 to 20 thousand heads accounting for 45 farms, Types greater than 20 -30 thousand 22 farms, type of scale over 40 thousand chicken 13 - 15 farms). Type with scale less than 10 thousand children with capacity of 1 million chickens in which there are kinds of scale with 5 - 10 thousand chickens are from 130 to 170 farms.
With the herd scale development above, in 2010, the province needs 76.5 thousand parents, (if raising grandparents we need over 2000 heads). In 2020, we need 142.8 thousand parent breeds (1 grandparent hen produces from 36 to 37 parent hens, 1 parent hen can produce from 110 to 120 chickens for trading). Due to the current facility, Luong My, Ba Vi, Van Phuc, joint venture CP group annually produce 30 million chickens so the issue of supplying seed is not difficult, the new investment needed not set – the current major issue needed attention is how to support prices for breed production bases scattered breeding lowest reaches 20,000 heads/parent. After 2010 depending on specific conditions, we can select bases with suitable conditions for seed production, investment to enlarger the kind of scales with over 40 thousand chicken which can be used for seed production and raising chicken for trading.
II. food solutions
II.1. mixed foods
- To meet the demands of producing over 350 thousand tons of pork, 30 thousand tons of poultry (2010) and reaching the scale 600 thousand tons of pork, 60 thousand tons of poultry meat (2020), the amount of needed food (converted to mixed food) can be up to nearly 1,1-1,2 million tons (2010) and 1.8 to 2.0 million tons (2020), if considering the processed food, the food source capability of the province just meet 485 thousand tons in 2010, so it is still missing nearly 600 thousand tons. Starting from the food source restriction, food demand highly increased, the province needs to have policies to encourage all sectors to participate and to suggest solutions to an effective management to create an efficient motivation to develop food production- delivery network more stably and to avoid the risks of quantity and quality food which are not guaranteed that are:
have suitable tax policies to help relevant enterprises working in food service operate more effective in Ha Tay.
have officials specializing in the field of animal feed who do not only follow the situation of food producing and supplying in terms of volume and price but also advise the provincial department on appropriate impacts to avoid the inconsistencies occurred in supply sources.
1. A good measure to lower the food price of the first period is transfer technology transfer to mix food from different animal food companies for animal raising farms according to farm self-mixing formula of manufacturer. This Measure may lower the food price from 9 - 13% current food cost.
Strictly dealing with cases of carving producing animal feed does not qualify as a manufacturer’s registration added to the market, all kinds of fake food, food stimulants damage to the poultry industry and consumers acceptance of meat.
Because the food quality needs to be determined by the age to have the right ratio of protein, energy, vitamin so it is necessary to strengthen state management, especially the action of casually building food processing bases. In the period 2006 - 2010 ha tay should not build new ones.
Raw materials for food production and processing in next time are mainly still bought from outside the province or be imported because the price is cheaper than that to buy raw materials domestically, but to lower the price it should exempt import tax and tax incentives VAT. At the same time Province also needs to have policies to promote production of all kinds of seed materials for food production and processing on the basis of increasing areas of winter crops needed to consider to reduce the maize areas in the plant converting the structure. It is more important to attract maize sources for trading in Northwest and create conditions for joint-venture food production capacity.
II.2. green unprocessed foods for cows
III. veterinary solutions
III.1. to pigs:
III.2. to cows:
III.3. to poultries
Derived from fact in the past two years, investment capital for the veterinary has been up to 5.1 to 5.5 billion per year, and this capital has been 6 times fold of the capital for veterinary in years from 2001 to 2003 due to primary avian influenza prevention and control (approximately 4 billions for the prevention and control), so works related to veterinary is still complicated and needs more capital in the coming few years.
Recently, the province has set out the comprehensive and synchronized solutions with achieved results and learned experiences to take early vaccination rate reaching over 85%, to strengthen control slaughter operations, check veterinary hygiene for the 60% animal killed, ... but the problem can not be overlooked is to reduce scattered livestock, to build policies to encourage kind of scales with 5 thousand chickens/ farm to prevent disease. One of the necessary conditions is to take the land to build houses for raising industrial chickens and chicken industry drop by the garden according to the projected targets mentioned in plan in the period 2006 - 2010 which is 230,000 m2 and 340,000 m2 in the period 2011-2020.
III.4. common issues
- It is necessary to continue improving the veterinary systems, especially animal veterinary facilities in terms of quantity, level.
- Beside the direction of strengthening the available checkpoints, districts need to have plan setting more checkpoints when the disease occurs in communes and districts in order to avoid being pushed in to passive situations
- Implement management 100% veterinary drug stores
- have policies to support expense for detecting diagnostics and vaccination and well out the outbreak in which the expense for vaccination support every year is from 1.5 to 2.0 billion and for dangerous diseases such as avian influenza, foot-and-mouth diseases, cholera outbreak.
IV. Prevent pollution and protect environment:
In addition to requirements of having solutions to take land built premises which move away from residential areas as described above in the investment for premises, required anti-pollution must be strictly implemented, the use of processed distribution, waste-water breeding should apply the following methods:
- Construct waste water depositing tanks
- Invest to build biogas cellars
- biological ponds
- depending on conditions, we can segregate or mix these measures as follow:
Depositing tank biogas cellar biological pond
Biogas cellar biological pond
Biogas cellar gas scouring tank biological pond
Waste treatments with biological products have been applied:
biological products De-odorase 30% imported from U.S. mixed into will combine tightly with NH3 in livestock and poultry waste which reduces the smell blowing in the premises
EM Bokashi products is an organic fermented substance using deodorizing measures in the premises, (building biogas systems according to technology by the Institute of Animal Husbandry has stainless steel equipments which help to prevent scum), this method does not only minimize environmental pollution but also reduce the rate of pneumonia and diarrhea in child pigs, inflammation in pigs from the same sows, reduce production cost from 5 - 6%.
In the short term, we need to pay more attention to areas needed applying well in 5 districts: Thanh Oai, Chuong My, Dan Phuong, Hoai Duc, Thuong Tin commune which have had high pollution level: Cao Vien, Dong Mai, Phuong Trung, Tan Uoc, Binh Minh, Mai Thanh (Thanh Oai), Minh Khai, Duong Lieu, Cat Que, Lai Yen, Duong Noi (Hoai Duc), Ha Mo, Dinh Phuong, Thuong Mo, Hong Ha, Hong Lien ( Dan Phuong), Dai Yen, Hong Phong, Hoa Chinh, Trung Hoa (Chuong My). Thul Phu, Tien Dung, To Hieu, Khanh Ha (Thuong Tin).
V. processing solutions
V.1. Meat processing
Currently in Ha Tay, there is a company of food processing for Export which includes 2 branches with a considerable processing technology with design capacity of 3,000 tons per year, 1 branch with the capacity 6-7 thousand tons per year. In year 2004, each month it processed 168 tons and according to reports this company got 1.7 million USD per year ... Thus processing areas of the province is very modest compared to the volume of meat production.
The trend of building new meat processing factories will be associated with the breeding areas which supply raw materials for export processing to closely facilitate links between stages of production materials and processing stages. The construction of new factories with capacity of 5,000 tons / year / factory is set only after 2010. Initially, it is vital to develop the capacity of scattered poultry slaughtering houses in the large scale animal raising farms with a domestic production line in accordance with each type of farming. The province advocates supporting the operation of 30 major slaughter houses which is considered as a necessary work in the period 2006 - 2010. The view point of building major slaughter houses are:
English to Vietnamese: kỹ thuật cầu đường
Source text - English 1.1.1.1. Testing
Sewer pipes / culverts shall be tested in the shade as specified or as instructed by the Engineer when they have been bedded and jointed and before any concrete surround or backfill is placed. A further test shall be carried out when any concrete surround has been completed and when backfill has been placed and compacted to a depth of 300 mm above the crown of the pipeline / culvert. Generally the testing of gravity pipelines will comply with European Standards EN 1610 and EN 1295-1.
Air tests (method “L”) or water tests (method “W)” are applicable and subject to the approval of the Engineer.
The Contractor shall provide labour, install and work the test pump, pressure gauges and all other equipment required for the test and he shall fill the pipes / culverts with water and subsequently empty them after test, all to the approval of the Engineer. The water used for testing shall be obtained from an approved source. Water drained from the pipes / culverts shall be discharged in a way that does not affect the stability of the works or adjacent structures.
1.2. ALTERNATIVE PIPE LAYING METHODS (PIPE JACKING, FLUSHING)
1.2.1. General
For alternative pipe laying proposals like pipe jacking-, flush/scour method or other technical solutions generally the same procedure shall be applied as for the open cut method for. These alternative proposals including their different items are currently not mentioned in the Biểu khối lượng thi công(BoQ). If the contractor wants to offer / implement such methods, separate clearly marked BoQ with reference to the alternative solution should be provided by the Applicant. All other items not covering the proposed technical solution shall remain. The entire design for alternative solutions is the obligation of the Contractor.
The Contractor shall prepare a method statement of his proposal for each particular part of the Works to be constructed at any one time, detailing the location, programme of pipe jacking or flush/scour method, temporary supports and the placing and handling of the spoil.
The Contractor shall submit for the Engineer’s approval his proposed method statement at least 14 days before his intended date to commence on each particular part of the Works.
Prior to the commencement of any pipe jacking or flush/scour operation the Contractor shall submit to the Engineer for his approval method statements. Such method statements shall include, but not be limited to the following:
• Equipment to be used
• Materials to be procured and their sources and properties
• Haul routes
• Stock pile areas
• Safety measures to be taken
• Detailed Drawings of all temporary works
• Computations to support the design of temporary works
• Measures to be taken to ensure that the public can safely pass the works
• Proposed working hours.
1.2.2. Material of Jacking Pipes / Reinforced Concrete Jacking Pipes
Production, delivery and material of all pipes used for the alternative pipe laying methods (e.g. pipe jacking) shall be in accordance to all relevant European or German Standards. The construction and testing of the sewage networks will also comply with European or German Standards.
All proposed pipes and associated fitting and couplings for incorporation in the Works shall be certified by the manufacturer that they comply with the above standards.
Notwithstanding such certification, any pipe found to be defective by visual examination should be rejected. Such defects which shall include cracks, honeycombing or effects of incorrect handling.
Pipe joints shall be stainless or galvanized steel collars with rubber jointing rings recommended by the pipe manufacturer for use in sewerage pipelines.
1.2.3. Construction Methods of Pipe Jacking
If the Contractor will implement alternative solutions for pipe laying (e.g. pipe jacking), the Contractor shall construct sewer pipelines using the alternative method for the sections of the sewer as proposed in the Drawings, provided by the Contractor and approved by the Engineer, or to the lines and grades as shown on the Drawings or as directed or approved by the Engineer.
• Excavation shall be carried out by equipment capable of maintaining and adjusting alignment as necessary.
• Equipment and systems shall be designed to provide the forces necessary for the installation of the full pipe string between driving and receiving pits
• Provision shall be made for closing up the exposed excavation face at all times.
• The pipe jacking procedure described in the Contractor’s method statement shall be made in full consideration of the ground and groundwater conditions along the pipeline route and shall be discussed with, and shall have the approval of, the Engineer prior to implementation.
1.2.3.1. Thrust and Reception Shafts
Thrust and reception shafts shall be designed and constructed to allow the safe operation of equipment and handling of materials and to withstand all loadings imposed by ground pressure, superimposed loads from surface structures and the maximum anticipated trust forces.
• If the Contractor intends to use permanent works for thrust arrangements he shall consult with the Engineer to establish the adequacy of the structure and to ensure that it will not sustain damage as the result of such use.
• In all case the Contactor shall submit his proposals including calculations to the Engineer for approval.
• The horizontal dimensions of shafts shall be determined by considering the dimensions required for the jacking operation or the subsequent construction of the manhole structure, whichever are greater.
1.2.3.2. Pipe Jacking Operation
All key personnel shall be experienced in pipe jacking.
• Before any particular pipe jack length commences sufficient numbers of standard and intermediate pipes and intermediate jacking assemblies shall be available to ensure continuous operation.
• Previously jacked pipes shall not be used without the approval of the Engineer. Cut pipes shall not be jacked.
• The jacking force applied by thrust pit jacks or an intermediate jacking station shall not exceed the design allowable distributed or deflected load for any pipe being jacked.
• Thrust loads shall be transferred to pipes through a thrust ring which shall be sufficiently rigid to ensure even distribution of the load.
• Intermediate jacking stations shall be inserted no later than when the main thrust pit jacking force reaches an agree level, typically 66% of the pipe design load or 66% of the available jacking thrust, whichever is the lesser, unless otherwise agreed with the Engineer during the jacking operation.
• Pipe jacking, once commenced, shall be performed as one continuous operation until completion, unless otherwise agreed with the Engineer.
• Means shall be provided to ensure that the pipeline remains stationary when any jacking rams are retracted even when face balance pressure is maintained.
• Where agreed for use by the Engineer as part of the Contractor’s method statement, a lubrication or ground support fluid, such as bentonite, shall be injected into the annulus between the exterior of the pipe and the ground. This fluid shall be maintained until grouting is carried out.
1.2.3.3. Sealing and Packing
Pipe joints shall comply with all relevant provisions of European and German Standards.
• Joint packing material, in accordance with the pipe manufacturer’s recommendations shall be inserted at each pipe joint and at any jacking station.
• After completion of jacking, cavities behind jacked pipes shall be filled with grout injected under pressure, unless otherwise agreed with the Engineer. All lifting holes and grouting holes shall be sealed with a 1:3 cement: sand mortar with plasticizer, or a purpose-made plug.
1.2.3.4. Monitoring and Instrumentation
The Contractor shall survey, monitor and record all jacking work as it proceeds so as to form a complete record of the work which shall include records of jacking loads, line and level measurements, the distance moved and the relationship between them. Copies of all records shall be supplied to the Engineer at agreed intervals.
• The jacking force instrumentation shall be calibrated at intervals agreed prior to the commencement of jacking by the Engineer.
• During grouting the type, consumption and pressure of grout shall be recorded.
• All changes in conditions including, but not limited to change of jacking force, ingress of water, etc shall be recorded.
1.2.3.5. Tolerances
Pipe jacking shall be carried out to the following tolerances:
• Horizontal Alignment: / - 50 mm
• Vertical Alignment: / - 50 mm from the given grade line of the invert and without low points.
Notwithstanding the above alignment tolerances, the rate of change of direction in any plane, or combination of planes, shall not exceed the maximum value agreed by the Engineer, taking into account the pipe length, diameter, jacking loads and the pipe manufacturer’s recommendations.
1.2.3.6. Disposal of Spoil
The Contractor shall dispose of spoil in accordance with the requirements of Section 1 Earthworks.
1.2.3.7. Connection with Manholes and Chambers
Jacking pipes shall be cut back such that the ends of pipes will be embedded in the wall of the manhole 50 mm beyond the inner face.
1.3. MANHOLES AND CHAMBERS
1.3.1. General
Manholes and Chambers shall be constructed and fulfil the requirements according to EN1917 and EN 124.
(a) Manholes and chambers shall be constructed on sewer pipelines in the positions and at the levels as approved and/or directed by the Employer's Representative. The manholes shall be constructed either from in-situ cast concrete or pre-fabricated. Where pre-cast manholes are built, all pre-cast concrete sections shall comply with the requirements of DIN 4034.
(b) Manholes shall be positioned on sewer pipelines at all changes in alignment, levels and diameters and on all connections with other sewers. Sewers shall have a spacing of the manholes not exceeding approx. 100 m.
(c) Manhole diameters shall at least be as shown on the drawings if one sewer only enters the manhole. If two or more sewers enter the manhole, the diameter shall be sufficient to accommodate adequate benching.
(d) All chamber rings, tapers, chamber and shaft covers shall be reinforced
(e) Lifting eyes are to be provided in chamber cover slabs and in all tapers and chamber sections
(f) Sulphate Resisting cement shall be used for all concrete and mortar subject to contact with sewage or sewage gas.
(g) Mortar shall be cement mortar of 600 kg cement per cubic meter of sand.
(h) All reinforced concrete structures for manholes, inspection chambers and treatment plant installations shall be constructed from B 35 waterproof concrete with high resistance to chemical attack according to DIN 1045.
(i) Benching shall be of sulphate resisting waterproof concrete. All benching shall be sloped towards the channel at a gradient of 2% or as directed by the Engineer.
(j) Blinding and screeds shall be constructed from concrete B15.
(k) The Contractor shall ensure that the manholes are well ventilated when any work is being carried out.
(l) All inlet and outlet pipes shall be joined to manholes by means of inlet and outlet wall pieces cast into the concrete as shown on the drawings, then 1.0 m length of pipe and then the rest of the pipes, in order to provide flexible joints in case of settling.
(m) The cast iron frame of the manhole covers shall be cast into the concrete slab. The manhole covers shall be class D 250 (in walkways) or D 400 (in the streets). They shall be round, lockable with ventilation slots manufactured in accordance with DIN EN 124 / DIN 1229
(n) The covers in roads and paved areas shall be accurately set to level and slopes of the roads and pavement.
(o) The height of the covers in not surfaced areas shall be coordinated with the relevant authority responsible for the resurfacing.
(p) The covers in gardens and open areas shall rise 200 mm above the surrounding độ cao mặt đất.
(q) The rectangular cast iron frames for the inspection chambers shall be of Class D 250 and according to DIN EN 124 / DIN 1229.
(r) Step irons according to DIN 1212 shall be provided and installed in all sewer manholes. The maximum spacing shall not exceed 25 cm.
1.3.2. Testing of Manholes and Inspection Chambers
Manholes and inspection chambers shall be visually inspected for water tightness against infiltration during Lấp lại đất operations and after Lấp lại đất have been completed. Testing of the Manholes shall comply with EN 1610. No infiltration flow shall be admissible.
2. BLOCKWORK AND MORTAR
2.1. CONCRETE BLOCKWORK
Concrete blocks shall be solid, hard, true to size and shape with sharp arises in accordance with DIN and approved by the Engineer.
They shall be obtained from an approved manufacturer or manufactured on Site in an approved block making machine.
The blocks on removal from the machine shall be carefully deposited on edge on racks under sheds erected by the Contractor and left for 3 days during which period they shall be kept constantly wet after which they shall be placed on edge in the open on racks and protected by sacking or other approved covering and kept wet for a further 5 days. Thereafter, the blocks shall be left in the same position without wetting for a further 20 days.
No blocks will be allowed to be used in the work until they are 28 days old and until samples have been taken and approved by the Engineer.
They shall be laid dry except for the bề mặt trên cùng which shall be wetted immediately before mortar is spread on. After laying, no further water shall be applied
Pre-cast concrete blocks used in manholes, chambers and structures shall be made using sulphate resisting cement and shall comply DIN 1146 or equivalent as BS 4027 or ASTMC 1157/150, Type V.
Block sizes shall be subject to design requirements, but with a minimum thickness of 140 mm for external walls and 100 mm for internal partition walls. Faces of blocks shall be 390 mm by 190 mm (metric co-ordinated) or other blockwork co-ordinate sizing approved by the Employer's Representative.
Unless otherwise approved by the Employer's Representative, aggregates for the manufacture of concrete blocks shall comply with DIN 1045, DIN 4226, BS 882. Pre-cast concrete blocks shall be solid with a minimum compressive strength of 10.5 N/mm².
Where concrete blocks are cast on Site, they shall be made in approved concrete block making machines.
All casing shall be carried out with the block making machines under cover. The concrete shall be put into the machine moulds in thin layers and properly tamped. On removal from the machine, the blocks shall be carefully cured. After placement on racks under sheds, the blocks shall be kept wet for three days. Curing shall be continued for a further five days with the blocks being kept on racks in the open under mat covers and kept wet. Further curing shall take place by leaving the blocks under mat covers for a further seven days without wetting.
If the Contractor wishes to use steam-cured concrete blocks, he shall request the approval of the Employer's Representative to the methods of curing proposed.
Blocks shall be carefully packed for transport and unloaded and stacked on delivery by hand or other approved means so as to avoid damage to surfaces.
Blockwork shall be constructed using cement sand mortar and joints shall not be less than 6 mm thick nor more than 10 mm thick at their narrowest part.
Where appropriate, the courses shall be laid level or parallel to the axis of the work and with parallel neat and regular joints. Vertical joints shall be kept true and in perpendicular alignment as appropriate.
Immediately before being laid, the blocks shall be thoroughly soaked in clean water, and before continuing partly completed work the exposed bed joint shall be likewise soaked.
The courses shall be built up uniformly and no portion of the wall during laying shall rise more than one meter above any other portion of the wall. No bats or broken blocks shall be allowed except where necessary for closures.
The joints shall generally be not more than 6 mm in the beds and 10 mm at the ends or such other dimensions as may be agreed by the Employer's Representative.
All joints shall be completely filled flush with mortar.
All blockwork shall be protected during erection from the effects of rain, frost or snow by suitable covering. Curing finished work shall be as specified for concrete. The Employer's Representative may order that all block laying should be suspended during frosty weather.
2.2. CEMENT MORTAR
Cement mortar shall consist of cement and sand gauged by volume in wrought wooden boxes in the proportion of 1 part of Portland Cement to 3 parts of sand. Where required (anywhere where the concrete will be exposed to sewage and/or sulphate gas etc.), Sulphate Resisting Cement should be used in corrosive environment. The mortar shall be measured in specially prepared gauge boxes and thoroughly mixed in an approved mechanical mixer or mixed dry on clean and approved mixing platforms, with water added afterwards until all parts are completely incorporated and brought to a proper consistency. The use of re-tempering of wholly or partially set mortar will not be allowed.
Mortar shall be mixed until the colour and consistency are uniform and shall be mixed only as and when required. Mortar shall fulfil the requirements of concrete class B25.
2.3. MORTAR PLASTICIZERS
Mortar Plasticizers shall comply with the relevant DIN and shall not contain chlorides. Mortar Plasticizers shall be used only with the approval of the Engineer. Plasticizers shall be used strictly in accordance with the recommendation of the manufacturer.
2.4. SAND FOR MORTAR
The sand shall comply with DIN 4226 or equivalent. All sand for making mortar shall be cleaned well, graded siliceous sand of good, sharp, hard quality equal to samples which shall be deposited with the Engineer for prior approval before use for the Works.
The sand shall be free from lumps of stone, earth, loam, dust, salt, organic matter and any other deleterious substance, and shall be sieved through a fine sieve and washed as necessary or when directed by the Engineer.
2.5. LIME FOR MORTAR
Lime for mortar shall be non-hydraulic or semi-hydraulic quicklime or hydrated lime in accordance with DIN 1060 or equivalent.
Quick lime shall be run to putty in a pit dug on the Site or in an approved container immediately after delivery to Site. The water to be first run into the pit or container and the lime shall be added until it is completely submerged and stirred until all lumps are disintegrated. The resulting milk-lime shall then be run through a 3 mm square-mesh sieve and run into a pit or other container and kept clean and moist for not less than 4 weeks before use.
Hydrated lime shall be added to water in a clean receptacle thoroughly mixed to the consistency of thick cream. The lime shall then be allowed to stand and kept clean and moist for not less than 16 hours before use.
2.6. CHEMICAL RESISTANT MORTAR
2.6.1. General
Chemical resistant mortar shall be used in corrosive environment for internal pointing of blockwork in underground structures and for internal rendering of concrete surfaces including concrete blockwork, or where the installation of plastic lining is impractical.
The purpose of the mortar is to resist bio-degradation in septic sewage environments which include sulphuric acid up to 10 % concentration (w/w) and up to 35 °C. Chemical resistant mortar shall be of a type and make approved by the Employer's Representative.
The following sub-clauses cover the requirements for chemical-resistant resin mortars for bedding, jointing or pointing bricks, concrete blocks or tiles, to be used as a corrosion-resistant lining in sewers, manholes, chambers and related structures. The mortar may have to be applied and cured in damp or wet conditions. Mortar required for pointing may have to be applied by gun, through a small diameter nozzle reaching to the bottom of the pointing groove.
2.6.2. Information to be Submitted by the Contractor
Where the Contractor wishes to submit results of tests previously carried out on materials for chemical resistant mortar, those results shall be submitted with certificates from the independent testing laboratories used.
The Contractor shall arrange to have samples of chemical resistant resin mortar tested by a laboratory approved by the Employer's Representative and suitability for the purpose of compliance with this Specification shall be established to the satisfaction of the Employer's Representative before any such product is used in the Works.
Further samples shall be taken during the period of application at the rate of one sample for every 1,000 kg of mortar delivered for use and tested by any or all of the procedures necessary to establish compliance with this Specification, as required by the Employer's Representative. If any sample fails to comply, application shall cease until suitability and compliance with the Specification has been re- established to the satisfaction of the Employer's Representative.
Any samples of chemical-resistant resin mortars submitted by the Contractor for the approval of the Employer's Representative shall be accompanied by a complete set of the literature issued by the manufacturer describing their product. In addition to the manufacturer's standard data sheets, details of other installations where the mortar has been used, and any references as to its suitability should be included.
2.6.3. Material and Properties Description
The chemical resistant mortar shall be an intimate mixture of liquid resinous material and a setting agent and may contain appropriately selected filler materials. When mixed, these components shall form a mortar with a workability suitable for the proposed method of application that subsequently hardens.
The liquid resin shall be any solvent-free resinous material capable of forming a chemical resistant mortar when mixed with a suitable catalyst and if required, a filler material. The filler material, if used, shall be compatible with the liquid resin, of the chemical resistance required and of a size that will permit the preparation of a minimum joint thickness of 3.0 mm. The mixed mortar shall not adversely affect or be affected by other construction materials with which it will properly come into contact, including fixtures and fittings.
The colours of individual components of the mortar shall be sufficiently different from each other so that complete homogeneous mixing of the components will be apparent by visual inspection. The colour of the completely mixed chemical resistant resin mortar shall be appreciably different from that of the bricks and tiles to be pointed.
The unmixed components of the mortar shall have a minimum shelf life after delivery to the site of 12 months when stored at a temperature between 5 °C and 45 °C.
Where it is proposed to apply the mortar be trowel, the working time after initial mixing of the resin, filler material and hardener shall be a minimum of 60 minutes at a temperature of 20°C and 30 minutes at 45°C. The pot life of the mortar shall be considered exceeded when the mortar can no longer be applied to a prepared surface without curling behind the trowel according to DIN.
If it is proposed, subject to the approval of the Employer's Representative, to apply the mortar by some other method (e.g. by gun), the working time after mixing shall be of a length suitable for the proposed method of application.
Mortar applied at any time during the pot life shall have the specified properties when cured.
The chemical resistant resin mortar shall form a bond with the brick, tile or concrete, or with a cured surface of itself, with a minimum strength, subject to substrate cohesive capacity, of 3 N/mm². This bond strength shall be achieved regardless of whether the mortar is applied to a dry, a damp or wet surface without priming or other form of surface preparation. The bond strength shall be tested and measured in accordance with ASTM C 321 using samples of the actual construction materials.
The mortar shall have a minimum compressive strength of 15 N/mm², a minimum tensile strength of 5 N/mm² and a maximum elastic modulus of 9 kN/mm² when tested and measured in accordance with ASTM C 579, C 307 and C 580 respectively.
The cured mortar shall be capable of resisting attack by any constituents that may normally or occasionally be present in the wastewater, or which may form within the system by a combination of physical, chemical and biological reactions. In particular, the mortar shall be capable of resisting attack from extended exposure to sulphuric acid in concentrations up to15 %, oil, grease and petrol.
The chemical resistance of the mortar shall be tested and measured in accordance with ASTM C 267. The tests shall be conducted using acid concentrations of 5 % and 15 % at temperatures of 20 °C, 40 °C and 70 °C and using petrol at 20 °C. The maximum changes in weight, compressive strength and bond strength shall be measured after 7, 28, 56 and 84 days. The results of the tests, for petrol and each acid concentration and temperature shall be plotted on a graph, against time elapsed and submitted for approval by the Employer's Representative.
While discoloration and loss of gloss on the surface of these tested specimens is acceptable, there shall be no surface cracks, etching, pitting or softening of the exposed surface. If the test solution becomes discoloured during the test, the test shall be continued with fresh solution and there shall be no further discoloration.
The mortar shall have a shrinkage not exceeding 0.5 % when tested after curing for 84 days at a temperature of 70 °C, and measured in accordance with ASTM C 531. Furthermore, the mortar shall withstand those tests prescribed in ASTM C 883.
The cured mortar shall have an absorption not exceeding 3.0 % when tested and measured in accordance with ASTM C 413.
The cured chemical-resistant resin mortar shall have properties of shrinkage and thermal expansion such as to be able to withstand those tests prescribed in ASTM C 884.
The mortar shall achieve its service strength in a period not exceeding 7 days at temperatures ranging from 10 °C to 45 °C in dry, damp or wet conditions when tested and measured in accordance with ASTM C 308. The properties of the cured mortar shall not be impaired by curing in dry, damp or wet conditions at any temperature ranging from 5 °C to 45 °C.
2.6.4. Testing
Requirements for testing of the chemical resistant resin mortar are described in the previous sub-clause. For convenience, those tests are summarised below, giving the relevant ASTM standards, in accordance to which the tests have to be carried out.
For resistance to chemicals: ASTM C 267
For working and setting time: ASTM C 308
For bond strength: ASTM C 321
For absorption: ASTM C 413
For shrinkage: ASTM C 31 and C 883
For compressive strength: ASTM C 579
For tensile strength: ASTM C 307
For modulus of elasticity: ASTM C 580
For thermal compatibility: ASTM C 884
Testing shall be carried out to the Employer's Representative's approval before any product is used in the Works.
Testing shall be carried out subsequently at the rate of one set of tests per 1,000 kg of mortar delivered to Site.
2.6.5. Storage and Application
The individual components of the chemical resistant resin mortar shall be supplied in pre-measured quantities and packaged by the manufacturer in units sized to suit the method of application. Under no circumstances shall these quantities be divided to mix smaller batches.
All packages shall be clearly marked as to size, contents, mixing instructions, safety precautions, storage requirements and date of expiration of the contents.
The manufacturer's recommendations for storage of the individual components of the mortar shall be followed. In all cases, storage shall be in a dry, cool place with containers tightly sealed and away from open flame. Components that have exceeded their shelf life or have become wet shall no be used.
The manufacturer's recommendations for the safe use of the mortar shall be followed. Workers shall wear gloves when handling the product. In the mixing and working areas there shall be no open flame and adequate ventilation shall be provided.
Mixing of the mortar shall be in strict accordance with the manufacturer's recommendations. The temperatures of the component shall be such that the temperature of the mixed mortar is between 15 °C and 40 °C. Mixing shall be thorough and complete such that the mortar is a homogeneous colour and free from lumps and air bubbles. In no case shall unspecified materials such as sand, cement or water be added to the mix. In no case shall mixed mortar that has become unworkable be retempered with resin liquid or by any other means. Once mortar has become unworkable, it shall be discarded.
The manufacturer's recommendations for surface preparation and for application and spreading of the mortar shall be followed. The joints shall be completely raked out to a depth of 25 mm. The surfaces to which the mortar is applied shall be free from dirt, debris, grease, oil and other materials that would prevent the formation of a sound bond. Where surfaces are damp or wet, such special measures as are recommended by the manufacturer for these conditions shall be adopted. The joints shall be carefully inspected by the Contractor prior to mortar application. A smooth, even surface shall be achieved, flush with the surface of the blocks or tiles.
The manufacturer's recommendations for curing the mortar shall be followed. The temperature during the curing period shall be kept within the range of 5 °C to 40 °C. Special consideration shall be given to curing in damp or wet conditions.
3. ĐƯỜNG LÀM VIỆC
Đặc điểm ký thuật đối với đường làm việc sẽ phục vụ cho việc thiết lập lại đường để lát nền, cho được tiếp cận và các đường tạm thời.
3.1. CLEARING AND GRUBBING
Dọn dẹp đối với các đường làm việc sẽ được thực hiện phù hợp với điều khoản 1.1 của Đặc diểm kỹ thuật.
3.2. CÔNG VIỆC THI CÔNG CÁC ĐƯỜNG ĐI
Công việc thi công các đường đi nhìn chung sẽ phải phù hợp với điều khoản 1 của Yêu cầu kỹ thuật.
Nơi có tỷ lệ khô tự nhiên của mặt đất trong phạm vi 0.3m.Mức độ tạo thành độ sâu dưới 90% được xác định trong DIN 18126, vật liệu thứ cấp này sẽ được gia công lại và được rắn chắc tới 90%.
Dưới độ sâu 0,3m, mức độ đông cứng tối đa đạt 90%.Còn trong phạm vi 0,3m, mức độ đông cứng sẽ dật tối đa 95%.
Trong quá trình đông cứng ở khu vực phía dưới,
During compacting sub-grade sections, particular attention shall be paid to the requirement that the natural sub-grade or the fill shall be compacted with a slight outward slope to ensure good run-off of surface water.
Material excavated out of the road bed which is suitable for use in fill, shall be used for filling as far as this is practicable.
3.3. HOÀN THIỆN VÀ BẢO VỆ LỚP NỀN
Khi lớp nền rắn chắc đúng như nhiệt độ yêu cầu, bề mặt công trường sẽ có hình dáng song sóng với bề mặt được hoàn thiện của lớp phủ mặt đường và có mức độ chính xác và mặt cắt ngang.
Bề mặt hoàn thiện của nền đường công trường sẽ được phê duyệt với nhà thiết kế trước khi làm các vật liệu nền.Một khi nền đường đã được đông cứng, sẽ được bảo vệ và sẽ được giữ giáo nước.Thực vật và các vật liệu sẽ không được lưu giữ trên mặt đường.Phương tiện giao thông của nhà thầu sẽ không được phép đi qua các nền đường đã được hoàn thành trừ khi được sự đồng ý của Nhà thiết kế.
Bất cứ một sự hư lại nào thì nhà thầu đều phải gánh chịu chi phí và trách nhiệm khắc phục.
3.4. VẬT LIỆU VÀ XÂY DỰNG NỀN DƯỚI
Vật liệu của các đường đắp cao và liên kết chỉ là loại vật liệu do nhà thiết kế phê duyệt.Vật liệu này sẽ được trải và đông cứng với độ dày và mức độ cụ thể.Nếu cần thiết, nước sẽ được bổ sung thêm.
Vật liệu bằng bột được sử dụng trong lớp nền dưới của công trường phù hợp với các yêu cầu cụ thểtrong DIN 4226.Tất cả các vật liệu được đặt, trải và đông cứng:việc trải trên công trường sẽ được thực hiện đồng thời tại chỗ.Vật liệu này sẽ được trải một hoặc hơn một lớp.Vì vậy sau khi đông cứng độ dày sẽ đạt yêu cầu.Độ đông cứng của lớp trải dưới của công trường sẽ là 98%, phù hợp với DIN 18126 và sẽ được hoàn thành càng sớm càng tốt sau khi
The granular material used in the sub-base shall comply with the requirements specified in DIN 4226. All material shall be placed, spread evenly and compacted; spreading shall be undertaken concurrently with placing. The material shall be spread in one or more layers so that after compaction the total thickness is as required. Compaction of the sub-base shall be to 98% of the maximum dry density in accordance with DIN 18126 and shall be completed as soon as possible after the material has been spread. Where compacting plant is of insufficient capacity, the sub-base shall be laid in two or more layers. During the construction period the sub-base shall be maintained in such a condition that it will be drained at all times. The outflow shall be diverted away from the construction at all times. The outflow shall be diverted away from the construction in order to prevent erosion.
The sub-grade shall be kept drained. All damage caused by water where the sub-grade cannot be compacted to the required density, shall be removed and repaired. Sub-grade shall be cleaned of all foreign matter, pot-holes, loose material, ruts, corrugations, depressions or any other defect. The Contractor shall rectify, scarify, water, grade and re-compact the sub-grade to the level at his own expense and all to the satisfaction of the engineer.
No surfacing shall be done until the sub-grade has been inspected and approved by the Engineer.
3.5. REQUIREMENTS FOR COMPACTION
Vibratory compacting plant may be used if approved by the Engineer. The number of passes to be made will be determined having regard to the characteristics of the plant to be employed and the material to be used.
If necessary, test specimens shall be taken to determine the optimum method of compaction. The surface of any layer of material shall, on completion of compaction, be well closed, free from movement under compaction plant and free from compaction planes.
All loose, segregated or otherwise defective areas shall be made good to the thickness of the layer and re-compacted.
The maximum compacted thickness of any layer shall be 25 cm. The sub-grade layers shall be compacted from slope stake to slope stake at the optimum moisture content. The layer shall be scarified and water shall be mixed in or the material allowed to dry out to the correct moisture content. The layer shall then be compacted. The final surface shall be graded to level.
Where shown on the drawings or directed by the Engineer, the formation shall be completed without the addition of any wearing course, sub-base, base or shoulders. The Contractor shall finish the sub-grade by grading watering and compacting with four passes of a 12 Mg smooth-wheeled roller. Irregularities shall not be allowed over 12 mm when measured from a 3 meter long straight board.
3.6. MATERIAL AND CONSTRUCTION OF BASE
The base shall comprise of one of the following:
• Selected gravel base
• Crushed stone
• Cement stabilised selected gravel base.
Base coarse is the top surfacing coarse which supports traffic and it is the coarse immediately below the surface dressing. The minimum thickness shall be 150 mm after proper compaction.
The selected gravel or crushed stone base shall be minimum 150 mm or as required by the existing ground conditions. If the thickness of the base course is required to be more than 150 mm, the material will be then laid and processed in two or more layers.
The materials to be used shall be from a source proposed by the Contractor and approved by the Engineer. It shall be non plastic. The maximum size shall not exceed 60 mm. The materials shall consist of sand gravel mixture or sand and crushed stone. The base material shall be a well graded material complying with the following requirements:
• CBR value after 24 hours soaking shall not be less than 80 %
• Liquid limit and plasticity index shall not exceed respectively 25 % and 8 %
• The grading limits shall be:
Sieve Size [mm] Passing % by weight
60 100
20 50-75
6 25-50
2 10-35
0.6 5-25
0.2 2-15
0.06 1-8
The selected gravel or crushed stone base shall be compacted to 100 % of maximum dry density.
Compaction shall take place by watering and rolling until there is no longer any visible movements of the compacted stone material and a stone of the base material when thrown under the roller shall become crushed. A finishing layer of sand shall be rolled in to fill the surface voids.
The cement stabilised selected gravel base shall be minimum 150 mm or as required by the existing ground conditions. The gravel material shall answer to the above specification and be stabilised with 6 - 8% of Portland cement. To obtain a uniform mixture of materials and water, the cement stabilised gravel base shall be manufactured in a pug mill, carried to the place of placement and compacted to 100% of maximum dry density. If the conditions on site allows it and the Engineer approves, the cement stabilised gravel base may be constructed on site by using rotary tillers and water bowsers to obtain a well mixed base. The compaction requirement remains unchanged, i.e. 100% of maximum dry density.
The material shall be placed and spread evenly, spreading shall be undertaken concurrently with placing. Road base material shall preferably be spread in one layer using a paying machine or similar approved.
The material shall be spread so that after compaction the total thickness is as required. The Contractor shall organise the work in such a way that longitudinal joints against hardened material are avoided as far as possible. If this is not possible then before work proceeds against a longitudinal joint of hardened material, the edge compacted previously shall, if it has been exposed for more than an hour, be cut back vertically to produce a face equivalent to the specified thickness of the layer of properly compacted material.
Compaction of the road base to a minimum of 100% of the maximum dry density shall be completed as soon as possible after the material has been spread. Compaction equipment shall not bear directly on hardened or partially hardened material previously laid other than what is necessary for achieving the specified compaction of the joint. Special care shall be taken to obtain full compaction in the vicinity of both longitudinal and transverse joints, and the Contractor shall use special small compactors in addition if necessary or instructed by the Engineer.
Any loose or poorly compacted material in the vicinity of construction joints shall be removed and replaced with fresh material. The surface of any layer of material shall on completion of compaction be well closed, free from movement under compaction plant and free from compaction planes, ridges, cracks or loose material. All loose, segregated or otherwise defective areas shall be made good to the full thickness of the layer and re-compacted. If this cannot be done within 2 hours of mixing, the making good shall comprise the material being broken out to the full thickness of the layer, removed and replaced with freshly mixed material compacted to Specification.
The base shall, immediately on completion or completion, be cured for a period of at least 7 days, unless otherwise approved by the Engineer. Curing shall be achieved either by covering with approved impermeable plastic sheeting adequately secured from being blown off the surface with joints overlapped at least 300 mm and set to prevent egress of moisture or in accordance with Clauses in the Specification dealing with concrete or by spraying with an approved curing compound.
Notwithstanding the above the Contractor shall construct the road base in accordance with the requirements and specification of the relevant Authority or Municipality. The Specification included herein shall be adopted only in the absence of any particular requirements from these authorities.
The surface shall be maintained by the Contractor until the Certificate of Completion is issued.
3.7. BITUMINOUS SURFACE COURSE / ASPHALT PAVEMENTS
3.7.1. Material and Construction
(a) A bituminous tack coat shall be applied on the cleaned drained and levelled base coarse. The tack coat shall comprise CSS-1 or CSS-1h emulsified asphalt mixed with equal parts of water. The amount of bituminous material including water per m² shall be up to 0.8 litres. Exact amount to be ordered by the Engineer.
(b) The surface course shall be composed of mineral aggregate and bituminous material mixed in a central mixing plant and the dimensions shall be according to drawings. The surface course shall be constructed in two courses to depth established by the Engineer and each course shall be rolled finished and approved before placement of the next course.
(c) The aggregate shall consist of crushed stone or gravel with or without sand and other fine mineral aggregates. The aggregate shall be of sound tough durable particles free from clay and organic matter and shall contain not more than 8% by weight of flat or elongated pieces. The course aggregate shall show no more than 40% wear and no signs of disintegration nor shall the sodium sulphate soundness loss exceed 9%.
(d) The bituminous plant mix shall be composed of a mixture of aggregate filler and bituminous materials. The aggregate fractions shall be sized uniformly graded and combined in such proportions that the resulting mixture meets the grading requirements of the job mix formula. The gradations of the materials shall produce a relatively smooth curve when plotted in a semi-logarithmic gradation chart.
(e) The crushing of the aggregate shall result in a product in which course aggregate (retained on sieve No.8) shall have at least 75% by weight of particles with at least 90% of weight of particles with one or more fractured faces. When filler is necessary, it shall consist of stone dust, Portland cement or other approved materials. The asphalt cement will be 60-70 grades.
(f) Work shall not start until the Contractor has submitted samples of the materials and the job mix formula for each mixture to the Engineer and to the acceptance of the Engineer. The accepted job mix formula shall then not be changed.
(g) The gradations in the table below represent the limits which shall determine suitability of aggregate. The final gradations shall not vary from the low limit to one sieve to the high limit on the adjacent sieves or vice versa. The selection of any gradation shall be such that the maximum size aggregate used shall not be more than one half of the thickness of the layer of the surface course being constructed
(h) The bituminous content of the mixture shall be calculated on the percentage basis by weight of the total mix. The mineral aggregate and asphalt shall be combined to meet the following gradations.
Sieve Size Passing in% of Weight of Total Mix
12.7 mm 100
9.5 mm 95-100
No.4 70-100
No.8 52-84
No.16 38-56
No.30 37-44
No.50 19-33
No.100 13-24
No.200 8-15
Asphalt 6.5-9.5
(i) The surface course shall be constructed only when the surface is dry and approved by the Engineer.
(j) The aggregate of the mixture shall be dried and heated at the paving plant before entering the mixer. When introduced into the mixture the combined aggregate shall not contain more than 0.5% moisture in the asphalt mixture. Water in the aggregate shall be removed by heating to the extent that there is no subsequent forming in the mixture. The maximum temperature and rate of heating shall be such that no permanent damage occurs to the aggregates. Particular care shall be taken that aggregates high in calcium or magnesium content are not damaged by heating. The aggregates shall be screened to specified sizes and conveyed into separate bins ready for mixing with bituminous material.
(k) The dry aggregates shall be combined in the plant in the proportionate amounts of each fraction of aggregate to meat the specified gradation. The quantity of each aggregate shall be measured and conveyed into the mixer. The aggregates shall be mixed with the bituminous material at the central mixing plant. The mixture shall be prepared at the temperature specified.
(l) The mixture shall be then transported from the mixing plant to the point of use in approved vehicles. It shall be placed at temperature between 121°C and 149°C when asphalt cement is used. The Engineer may accept lower temperatures. The temperatures shall be maintained throughout the spreading operation. The mixture shall be laid only upon cleaned dry and approved underlying course.
(m) After arrival, the mixture shall be dumped and immediately spread to the full width required. It shall be struck off in a uniform layer such that when the work is completed will have the required thickness.
(n) After spreading, the mixture shall be thoroughly and uniformly compacted with power rollers as directed by the Engineer. The speed of the roller shall at all times be slow to avoid displacement of the hot mixture. Any displacement occurring as a result of reversing the direction of the roller or from any cause shall be corrected at once by rakes and fresh mixture.
3.7.2. Asphalt Overlay Pavements
The asphalt overlay pavements comprise:
• Asphalt concrete course
• Binder course
• Wearing course
All pavements are asphalt concretes, but of varying composition, especially in regard of the grading of the gravel fraction. The asphalt concrete course shall be the coarser and the wearing course of the finest grading.
3.7.3. Hot-Mix Asphalt Bituminous
The bituminous mixture for the surface courses shall conform to the requirements of locally produced mixtures.
The composition of the mixtures is generally as follows:
• Stone dust filler
• 5 to 7 % bitumen
• 70 to 75 % grey or blue calcareous material
• 23 to 25 % sand.
Bituminous mixtures shall be, as far as practicable, obtained from an approved local mixing plant.
Contact details of local producers (sub-contractors) will be given by the Engineer. No bituminous mixture shall be manufactured until a job-mix formula has been submitted by the Contractor and approved by the Engineer in writing.
The formula shall indicate the exact percentage of each sieve fraction and the exact percentage of asphalt to be used in the mixtures, including the mix temperature. The job-mix formula shall be within the master range as specified and shall be in effect until modified in writing by the Engineer.
3.7.4. Weather Limitations
Bituminous courses shall be constructed only when the base is dry and when the weather is not rainy.
3.7.5. Preparation
Immediately before applying a bituminous pavement, the surface of the base course shall be thoroughly cleaned of all loose or foreign material. The base layer shall be coated with a tack-coat of the liquid asphalt rapid curing type. The tack-coat composition shall be approved by the Engineer's before starting the works. The tack-coat shall be applied just sufficiently in advance of the placement of the asphalt concrete mixture so as to provide a thin adhesive film of bituminous cement to ensure a good bond.
The tack-coat shall be uniformly applied by means of a pressure hand spray, in quantities of not less than 0.2 litres per square metre or more than 0.3 litres per square metre of surface, unless otherwise directed by the Engineer. Stakes for alignment control shall be furnished, set and maintained by the Contractor, subject to checking and correction by the Engineer, in order that the Works shall conform to the lines shown on the drawings.
The stakes shall be set in lines parallel with the centre line of the area to be paved, offset and spaced as directed by the Engineer.
3.7.6. Transportation
All bituminous mixtures shall be transported from the mixing plant to the spreader in trucks having tight, clean, smooth beds which have been oiled with a minimum amount of approved thin oil to prevent adhesion of the mixtures to the trucks. Each load shall be covered with canvas, or other suitable material, to protect it from dust or rain, and to prevent the loss of heat. Deliveries shall be arranged so that spreading and rolling of all the mixtures prepared for a day's run can be completed during daylight, unless artificial light satisfactory to the Engineer is provided. Any loads excessively wet by rain will be rejected. Hauling over freshly laid material will not be permitted.
3.7.7. Placing
The asphalt pavement shall be constructed in accordance with the thickness as present prior to removal and excavation work or as shown on the drawings with a minimum as specified. The temperature of each mixture when dumped into the spreader shall be as directed by the Engineer, plus or minus 10°C.
The spreader shall be adjusted and the speed regulated, so that the surface of the ill be smooth and of such depth that, when compacted, it will conform to the cross section shown on the drawings. The length of any lane laid before placing the adjacent lane shall be as directed by the Engineer. Where two spreading machines are operating in staggered position, no single lane shall be laid in advance of the adjoining lane further than will permit a satisfactory hot longitudinal joint between the lanes.
Where forming a hot longitudinal joint, the 150 mm strip along the edge against which additional material is to be laid shall not be rolled until such additional material is placed, except when the work is to be discontinued. After the first lane has been placed and rolled, the adjacent lane shall be placed while the unrolled 150 mm strip is hot and in readily compactable condition. Rolling of the adjacent lane shall begin along the joint. Placing of the mixture shall be as continuous as possible.
In areas where the use of machine spreading is impractical, the mixture may be spread by hand and dressed with rakes. The loads shall not be dumped any faster than can be properly handled by the shovellers and rakers.
Contact surfaces of previously constructed pavement kerbs, manholes and similar structures shall be painted with a thin tack-coat prior to placing the bituminous mixture.
3.7.8. Compaction of Mixtures
Compaction shall be effected by three-wheel rollers and tandem rollers.
Rolling of the mixture shall begin as soon as after placing as the mixture will bear the roller without undue displacement. Delays in rolling freshly spread mixtures will not be permitted. Initial rolling shall be effected by tandem rollers, followed immediately by the three-wheel rollers. Rolling shall start at the extreme sides of the lanes and proceed toward the centre of the pavement overlapping on successive strips by at least one-half the width of the rear wheel of the three-wheel roller. On the super-elevated curves, rolling shall begin at the low side and progress toward the high side. Alternative trips of the roller shall be slightly different lengths. Tests for conformity with the smoothness will be made immediately after initial compaction, any deviations in excess of the specified tolerances shall be corrected by loosening the hot surface with rakes and removing or adding material as directed before continuing the rolling.
Generally, rolling shall be executed in such a manner as to produce a smooth surface and shall be continued until a density of at least 100% has been obtained.
During rolling, the wheels of the rollers shall be moistened to prevent adhesion of the mixture to the wheels, but an excess of water will not be permitted. The Contractor shall furnish additional and sufficient rollers if it is found that the pavement density specified is not obtained. In all spaces not accessible to the roller, the mixture shall be thoroughly compacted with hot hand tampers weighing not less than 10 kg, with a tamping face of not more than 300 cm². Skin patching of an area that has been rolled will not be permitted.
Any mixture that becomes mixed with foreign material, or is in any way defective, shall be removed, replaced with fresh mixture and compacted. The rollers shall not be permitted to stand on pavement, which has not been fully compacted. Necessary precautions shall be taken to prevent the dropping of oil, grease, petrol, or other foreign matter on the pavement, either when the rollers are in operation or standing. The Contractor shall provide competent workmen who are capable of performing all work incidental to the correction of all pavement irregularities.
The finished surface shall not vary more than 3 mm when tested with a 3.00 m straight edge applied parallel with the centre line of the pavement. After completion of the final rolling, the smoothness of the course will be checked, and any irregularities that exceed the tolerance or that retain water on the surface shall be corrected by removing the defective area and replacing with new pavement without additional payment. The completed bituminous pavement will be tested for thickness at such intervals as directed by the Engineer. Where the thickness proves to be more than 5 mm smaller than the specified pavement thickness, the deficient pavement shall be removed and replaced with satisfactory pavement with no additional payment.
All joints shall present the same texture, density and smoothness as other areas of the course. The joints between old and new lanes, or sections, shall be carefully made in such manner as to ensure a continuous bond between the old and new pavement. All trimmed contact surfaces of previously constructed pavement shall be painted with a thin, uniform tack coat before the fresh mixture is placed. When the edges of joints are irregular, honeycombed, or poorly compacted, all unsatisfactory sections of joint shall be trimmed to expose an even, vertical, or sharply sloping surface for the full thickness of the course. Fresh mixture shall be raked uniformly against the joint, followed by rolling. After final rolling, no vehicular traffic of any kind shall be permitted on the pavement for at least 24 hours.
3.7.9. Kerb Stones Laying
Pre-cast concrete kerb stones shall be laid according to the relevant Standards, true to line and level and any kerb found to be more than 5 mm out of line or level at either end shall be lifted and reused.
Where practicable kerb stones shall be laid before paving. In reinstatement, the original kerbs stones shall generally be re-used except where these are damaged. They shall be thoroughly cleaned before replacement and laid to suit the line and level of the undisturbed kerbs.
Kerb stones laid on stabilised pavement shall be bedded on a layer of 2:1 sand-cement mortar 150 mm thick and shall be backed with concrete, cast over and around steel dowels previously driven into the green pavement material and shaped up to the required cross section.
Kerb stones laid otherwise than on concrete pavement shall be bedded on a layer of 2:1 sand-cement mortar 150 mm thick and shall be backed with concrete shaped up to the required cross-section.
Specially cast circular kerbs shall be used on curves of 13 m radius or less.
Kerbs shall be jointed with cement mortar except at expansion joints which shall be made with preformed joint filler 13 mm thick. Expansion joints shall be carried through the concrete backing and foundation.
3.7.10. Các lối đi
The formation and sub-grade for footpaths shall be prepared as specified for roads, except that proof-rolling will not be required.
Paving flags shall be un-reinforced pre-cast concrete of 50 mm minimum thickness and shall be natural colour unless otherwise specified.
Edging to footpaths shall be of pre-cast concrete. It shall be bedded in concrete foundation and shaped up.
No sub-base will be required for footpaths. The base shall be as specified for road base, laid and compacted to a minimum thickness of 75 mm using a roller of not less than 2.5 ton mass or other approved equipment giving equivalent compaction.
Where a flexible final surface is specified the base course shall be sealed with a coat of cut-back bitumen, 100 seconds grade sprayed on at the rate of 1.4 litres/m² and shall be covered by a surfacing of 6 mm nominal size medium textured wearing course macadam not less than 25 mm thick made and laid in accordance with BS 4987.
Where concrete flags are specified as the final surface, they shall be bedded on a layer of sand approximately 50 mm thick, laid on to the base course. Joints shall be made 3:1 sand-cement mortar. Paths surfaced with concrete flags will not normally have pre-cast concrete edgings.
3.7.11. Testing
The Contractor shall carry out tests at such intervals as the Engineer may direct to demonstrate that the materials for the granular sub-base and road-base comply with the Specification and that the specified density for the sub-grade, sub-base and roadbase are being achieved.
The Contractor shall inspect and test each area of layer for compliance with surface level accuracy.
9558 từ
Translation - Vietnamese 1.1.1.1 Thử nghiệm
Các ống thoát nước/các cống sẽ được thử nghiệm một cách cụ thể hoặc theo chỉ dẫn của Kỹ sư khi các ống này được gắn với nhau và đặt ở đáy trước khi vùng xung quanh bê tông hoặc việc lấp đất được hoàn thành. Công tác thử nghiệm bổ sung phải được tiến hành khi đã hoàn thành vùng xung quanh bê tông và khi việc đắp đất được thực hiện và nén đến độ sâu 300mm phía trên đỉnh đường ống/cống. Nhìn chung việc thử nghiệm các ống trọng lực sẽ tuân theo các Tiêu chuẩn Châu Âu như EN 1610 và EN 1295-1.
Các thử nghiệm bằng khí nén (phương pháp "L") hay các thử nghiệm bằng thủy lực (phương pháp "W") có thể ứng dụng được và theo sự phê duyệt của Kỹ sư.
Nhà thầu phải cung cấp nhân công, lắp đặt và vận hành máy bơm thử nghiệm, các áp kế và tất cả các thiết bị cần cho thử nghiệm và Nhà thầu cũng phải bơm đầy nước vào các ống dẫn/cống, sau đó tháo hết nước sau khi kết thúc cuộc thử nghiệm, tất cả đều phải thông qua phê duyệt của Kỹ sư. Nước dùng cho thử nghiệm phải lấy từ nguồn đã được đồng ý. Nước thoát từ các ống dẫn/cống phải được xả ra ngoài theo một phương pháp để không ảnh hưởng đến tính ổn định của các công trình và hệ thống xung quanh.
1.2. Các phương pháp đặt ống dẫn (việc đặt đường ống và xả nước).
1.2.1 Khái quát
Nhìn chung, đối với các đề xuất đặt ống dẫn như việc đặt đường ống, xả nước hay các giải pháp kỹ thuật khác, một quy trình chung sẽ được áp dụng cho tất cả các giải pháp về mặt kỹ thuật chẳng hạn như phương pháp đào lộ thiên. Những đề xuất giải pháp này gồm những phần khác nhau hiện không được đề cập trong Biểu đồ khối lượng thi công (BoQ). Nếu Nhà thầu muốn cung cấp/thực hiện những phương pháp đó, Nhà thầu cần đánh dấu rõ ràng BoQ có tham chiếu giải pháp thay thế do bên dự thầu cung cấp. Tất cả các phần khác không đề cập trong giải pháp kỹ thuật sẽ vẫn được giữ nguyên. Thiết kế hoàn chỉnh của giải pháp thay thế là nghĩa vụ của Nhà thầu.
Nhà thầu phải lập một bản báo cáo phương pháp đề xuất về việc xây dựng mỗi hạng mục công trình ở bất kỳ thời điểm nào, nêu cụ thể địa điểm, kế hoạch đặt ống dẫn hay phương pháp xả nước, hỗ trợ tạm thời, việc lấp đất và xử lý đất.
Nhà thầu phải nộp báo cáo phương pháp đề xuất để Kỹ sư phê duyệt ít nhất 14 ngày trước ngày khởi công dự tính mỗi hạng mục công trình cụ thể.
Trước khi bắt đầu thực hiện công tác đặt ống hoặc xả nước/xả cát, Nhà thầu phải nộp các bản báo cáo cho Kỹ sư phê duyệt. Những báo cáo đó phải gồm nhưng không giới hạn như sau:
Thiết bị được sử dụng
Vật liệu được thu mua, các nguồn và đặc tính của chúng.
Đường thi công
Khu vực dành cho kho vật liệu/kho vật tư
Biện pháp an toàn được áp dụng
Các bản vẽ chi tiết của tất cả các công trình tạm thời
Các tính toán để hỗ trợ thiết kế của các công trình tạm thời
Các biện pháp áp dụng để đảm bảo an toàn cho người dân tại điểm thi công của công trình
Số giờ làm việc đề xuất
1.2.2. Vật liệu của ống kích/ống kích bằng bê tông cốt thép
Việc sản xuất, cung cấp và vật liệu của tất cả các ống dẫn sử dụng trong các biện pháp lắp đặt đường ống thay thế (ví dụ: đặt các ống dẫn) phải tuân theo tất cả các Tiêu chuẩn Châu Âu hay Tiêu chuẩn của Đức có liên quan. Việc xây dựng và thử nghiệm mạng lưới thoát nước sẽ phải tuân thủ các Tiêu chuẩn Châu Âu hoặc Tiêu chuẩn của Đức.
Tất cả các ống được đề xuất và các bộ phận nối dùng cho việc nối các hạng mục công trình sẽ được kiểm định bởi nhà sản xuất - những người tuân thủ và áp dụng các tiêu chuẩn nói trên.
Ngoài ra, bất kỳ ống dẫn nào bị phát hiện là có khiếm khuyết khi kiểm tra sẽ bị loại bỏ. Những khiếm khuyết đó gồm các vết đứt gãy, dạng tổ ong hay các ảnh hưởng của quá trình xử ký không đúng quy cách.
Các khớp nối ống phải là sắt không rỉ hay các đai bằng thép mạ với các vòng nối bằng cao su được các nhà sản xuất đề xuất sử dụng trong các đường ống dẫn nước thải.
1.2.3. Các phương pháp lắp đặt đường ống
Nếu Nhà thầu thực hiện các giải pháp thay thế cho quá trình lắp đặt đường ống (ví dụ: đặt đường ống), Nhà thầu sẽ xây dựng các đường ống thoát nước sử dụng các biện pháp thay thế cho các phần của ống thoát nước như đã được đề xuất trong các bản vẽ do các Nhà thầu cung cấp và đã được các Kỹ sư đồng ý hoặc đối với các đường ống và các mức trong các bản vẽ hoặc do Kỹ sưkỹ thuật chỉ dẫn.
• Việc đào đất phải được tiến hành bằng thiết bị có khả năng bảo trì và điều chỉnh hướng đào khi cần thiết.
• Thiết bị và các hệ thống sẽ được thiết kế để cung cấp các lực cần thiết cho quá trình việc lắp đặt đường ống dẫn hoàn chỉnh giữa việc truyền và nhận các hố.
• Quá trình cung cấp sẽ được tiến hành để lấp bề mặt các hố đào trong toàn bộ thời gian.
• Quá trình đặt ống dẫn miêu tả trong báo cáo phương pháp của Nhà thầu sẽ được xem xét một cách toàn diện về các điều kiện đất và nước ngầm dọc theo đường ống và sẽ được thảo luận và phải có sự chấp thuận của Kỹ sư trước khi thực hiện.
1.2.3.1. Cột áp và các trục nhận
Cột áp và các trục nhận sẽ được thiết kế và xây dựng cho phép thực hiện vận hành thiết bị an toàn và xử lý vật liệu đồng thời chịu được mọi tải trọng do áp lực đất, do quá tải từ các công trình trên bề mặt và mức tối đa của các lực an toàn đã biết trước.
• Nếu Nhà thầu định sử dụng các công trình vĩnh cửu để bố trí cột áp, Nhà thầu phải bàn với Kỹ sư nhằm thiết lập một cấu trúc đầy đủ và để đảm bảo rằng điều đó không gây thiệt hại do việc sử dụng đó gây ra.
• Trong mọi trường hợp, Nhà thầu phải nộp các bản đề xuất gồm tất cả các tính toán đề Kỹ sư phê duyệt.
• Các chiều ngang của các trục sẽ được quyết định khi xem xét các chiều cần cho quá trình lắp ống dẫn hay cho việc xây dựng tiếp của các cửa cống, dù có lớn hơn.
1.2.3.2. Quá trình lắp đặt ống dẫn
Tất cả nhân lực chủ chốt phải có kinh nghiệm trong công tác lắp đặt ống.
- Trước khi bất kỳ độ dài đường ống đáp ứng đủ số lượng các tiêu chuẩn và các ống trung gian và các quá trình lắp đặt các thiết bị trung gian sẽ sẵn có để đảm bảo quá trình lắp đặt diễn ra liên tục.
- Các ống được lắp đặt trước đây sẽ không được sử dụng nếu không có sự chấp thuận của Kỹ sư. Các ống đã bị cắt rời sẽ không được lắp đặt.
- Các bệ đỡ cột áp có sử dụng lực đặt hay phần trung gian của bệ đỡ sẽ không vượt quá thiết kế cho phép về các tải phân phối hay tải làm võng bất kỳ ống dẫn nào đã được lắp đặt.
- Các tải cột áp sẽ được truyền đến các ống dẫn thông qua một vòng của cột áp - vòng này đỉ cứng để đảm bảo phân phối đều tải.
- Các phần trung gian của bệ đỡ sẽ được gắn thêm vào ngay khi lực đặt cột áp chính đạt đến mức cho phép, tức là khoảng 66% tải của ống theo thiết kế hay 66% cột áp đặt sẵn - cái có thể lỏng hơn trừ khi không đạt được sự đồng ý của Kỹ sưtrong quá trình lắp đặt ống.
- Việc đặt ống khi đã được bắt đầu sẽ được thực hiện theo một quá trình liên tục cho đến khi hoàn tất trừ khi không đạt được sự đồng ý của Kỹ sư giám sát.
- Sẽ cung cấp các biện pháp để đảm bảo rằng các ống dẫn không dịch chuyển khi bất kỳ búa đóng cọc nào được rút lên thậm chí ngay cả khi áp suất cân bằng bề mặt không thay đổi.
- Tại nơi người Kỹ sưđồng ý sử dụng như một phần của báo cáo phương pháp của Nhà thầu, chất bôi trơn hay chất lỏng hỗ trợ liên kết như vữa sẽ được bơm vào giữa vùng bên ngoài ống dẫn và lớp đất xung quanh. chất lỏng này sẽ được duy trì cho đến khi quá trình phun vữa xi măng được tiến hành.
1.2.3.3. Quá trình hàn và đóng gói
Các khớp nối ống dẫn sẽ phải tuân thủ các điều khoản liên quan trong Tiêu chuẩn Châu Âu và Tiêu chuẩn Đức.
- Theo đề nghị của nhà sản xuất, vật liệu để độn kín các khớp nối phải được chèn vào mỗi khớp nối ống dẫn ở bất kì điểm đặt ống dẫn nào.
- Sau khi hoàn thành quá trình đặt ống dẫn, các hố đào lên sau khi các ống dẫn đã được đặt vào vị trí sẽ được lấp đầy bằng quá trình phun vữa xi măng dưới áp lực cao, trừ khi được sự đồng ý của Kỹ sư. Tất cả các hố nâng và các hố phun vữa sẽ được lấp đầy bằng vữa với tỷ lệ 1 xi măng: 3 cát có thêm chất đàn hồi hay chất tạo mức độ kết dính theo chủ định.
1.2.3.4. Giám sát và đo đạc
Nhà thầu sẽ thăm dò, giám sát và ghi lại tất cả các việc của quá trình lắp đặt đường ống để lập một bản báo cáo hoàn chỉnh sgồm tất cả các ghi chú về tải lắp đặt, các biện pháp vạch đường và phân chia mức, khoảng cách dịch chuyển và mối quan hệ giữa chúng. Bản sao của tất cả các ghi chép cần được cung cấp cho Kỹ sư vào khoảng thời gian đã thống nhất.
- Thiết bị đo lực lắp đặt phải được hiệu chỉnh vào khoảng thời gian Kỹ sư đã thống nhất trước khi bắt đầu lắp đặt.
- Trong suốt quá trình phun xi măng, cần ghi lại kiểu, mức tiêu thụ và áp suất của quá trình phun.
- Cần ghi lại tất cả các thay đổi về điều hiện, nhưng không giới hạn cho việc thay đổi lực lắp đặt, sự xâm nhập của nước..
1.2.3.5. Dung sai.
Việc lắp đặt các ống dẫn cần được tiến hành theo dung sai sau:
- Điều chỉnh thẳng theo chiều ngang: / - 50 mm
- Điều chỉnh thẳng theo chiều thẳng đứng: /- 50mm từ đường thẳng chỉ cấp độ của máng đường và không có các điểm thấp hơn
Không cho phép vượt quá các giới hạn trên, tỷ lệ thay đổi hướng của bất kỳ mặt cắt dọc cột hoặc sự kêt hợp của các mặt cắt dọc không được vượt quá giá trị do Kỹ sưđề ra, đã tính cả chiều dài của ống, đường kính, tải đặt ống và theo những hướng dẫn của nhà sản xuất.
1.2.3.6. Xử lý đất
Nhà thầu phải xử lý đất theo các yêu cầu của Mục 1 - Công tác đào lấp.
1.2.3.7. Kết nối các cửa cống với các buồng
Các ống lắp đặt sẽ được cắt sao cho các đầu của các cống sẽ gắn lên thành cửa cống cao hơn 50mm so với mặt phía trong.
1.3. Các cửa cống và các buồng
1.3.1. Khái quát
Các cửa cống và các buồng sẽ được xây dựng và phải đáp ứng các tiêu chuẩn EN1917 và EN124.
(a) Các cửa cống và các buồng sẽ được xây dựng trên các đường ống thoát nước ở các vị trí và ở các mức như đã định và/hoặc cho người chủ đại diện chấp thuận. Các cửa cống sẽ được đặt trên các tấm bê tông đổ tại chỗ hoặc đã được đúc sẵn. Ở những vị trí các cửa cống được đúc sẵn, tất cả các phần bê tông đổ tại chỗ sẽ phải phù hợp với các yêu cầu của DIN 4043.
(b) Các cửa cống sẽ được bố trí ở các vị trí trên các ống thoát nước ở tất cả các điểm thay đổi về mức điều chỉnh, các mức, đường kính và tất cả các kết nối với các ống thoát nước khác. các ống dẫn có một khoảng không dành cho các cửa cống không vượt quá 100m.
(c) Các đường kính của cửa cống ít nhất cũng được biểu thị trên bản vẽ nếu một ống dẫn đi vào một cửa cống. nếu hai hay nhiều ống thoát nước đi vào một cửa cống, đường kính của cửa cống phải đủ để chứa chúng.
(d) Tất cả các đai và côn của buồng, tất cả vỏ của buồng và của trục cần được gia cố.
(e) Các mắt nâng được cung cấp trong tất cả các mảnh vỏ của buồng cả ở tất cả các côn và các phần khác của buồng.
(f) Xi măng chống ăn mòn sunphat sẽ được sử dụng cho tất cả bê tong và vữa để nối các ống dẫn nước thải và ống dẫn khí ga thải.
(g) Vữa sẽ là vữa xi măng của 600kh xi măng/m khối cát.
(h) Tất cả các cấu trúc xi măng được gia cố dành cho cửa cống, cho các buồng kiểm tra và việc xử lý tất cả các quá trình lắp đặt nhà máy sẽ được xây dựng từ bê tông chống thấm nước với mức chống ăn mòn hóa học cao theo DIN 1045.
(i) Quá trình gia công sẽ là của bê tông chống thấm nước không bị ăn mòn bởi sunphat. Tất cả quá trình gia công sẽ bị nghiêng đi theo hướng tới một kênh ở 2 độ như chỉ đạo của Kỹ sư giám sát.
(j) Đá dăm và các thanh tà thẳng sẽ được chế tạo từ bê tông B15.
(k) Nhà thầu sẽ đảm bảo rằng các cửa cống dẫn được lưu thông khí tốt khi bất kì công việc gì được tiến hành.
(l) Tất cả các ống nạp và ống xả sẽ được nối đến các cửa cống nhờ các mảnh thành đầu vào và đầu ra đúc sẵn ở trên các tấm bê tông như ở trong các bản vẽ, sau đó là 1.0 m chiều dài của ống dẫn và sau đó là toàn bộ ống dẫn, để cung cấp các khớp nối linh hoạt trong khi cố định.
(m) Khung sắt đúc sẵn của các lớp vỏ bọc cửa cống sẽ được đúc bên trong tấm bê tông. Các lớp vỏ bọc cửa cống dẫn sẽ là lớp D 250 (trên các đường đi bộ) hoặc D 400 (trên các đường phố). Chúng sẽ là hình tròng, có thể khóa bằng các rãnh thông hơi sản xuất theo các tiêu chuẩn DIN EN 124 / DIN 1229.
(n) Các lớp bao phủ bề mặt trên các tuyến đường và các khu vực làn đường sẽ được thiết đặt chính xác theo một mức và các đoạn đường dốc của các tuyến đường và làn đường.
(o) Độ dày của các lớp bao phủ trên các khu vực chưa được phủ sẽ được phân cho người có liên quan chịu trách nhiệm trải lại lớp bao phủ của khu vực đó.
(p) Các lớp bao phủ ở trong các khu vườn và ở các khu vực mở sẽ cao hơn 200mm so với các khu vực xung quanh.
(q) Các khung sắt đúc hình chữ nhật dành cho buồng sẽ là lớp D 250 và theo các tiêu chuẩn DIN EN 124 / DIN 1229.
(r) Các móc sắt theo tiêu chuẩn DIN 1212 sẽ được cung cấp và lắp đặt trong tất cả các cửa cống thoát nước. Khoảng không lớn nhất sẽ không vượt quá mức 25cm.
1.3.2. Thử nghiệm cửa cống dẫn và các buồng
Cửa cống dẫn và buồng sẽ được kiểm tra về việc chống thấm và chống rò rỉ nước trong quá trình lấp lại đất và sau khi quá trình lấp đất đã kết thúc. Việc kiểm tra các cửa cống dẫn sẽ theo tiêu chuẩn EN 1610. Không được phép để rò rỉ nước ra khỏi đường ống.
2. Khối đúc lớn và vữa
2.1. Khối bê tông đúc lớn
Các khối bê tông đúc lớn rất cứng, rắn, có cỡ xác định và có hình dạng theo tiêu chuẩn DIN và được người Kỹ sưchấp nhận.
Chúng được thu từ một nhà sản xuất đã được chỉ định hoặc sản xuất trên công trường trong một chiếc máy trộn bê tông.
Các khối bê tông từ máy trộn bê tông sẽ được để cẩn thận trên lề trên các bệ đỡ ở dưới các kho của Nhà thầu và được để trong vòng 3 ngày và trong suốt thời gian đó bê tông sẽ được giữ ở trạng thái ướt ổn định rồi sau đó chúng sẽ được đặt trong không khí trên lề ở trên các bệ đỡ và được bảo vệ bởi việc đóng gói hay các biện pháp che chắn khác và giữ trong tình trạng ướt trong 5 ngày. Sau đó các khối bê tông sẽ được đặt trên vị trí đó thêm 20 ngày nữa.
Không được sử dụng các khối bê tông trong ác công trình cho đến khi chúng đã được 28 ngày và cho đến khi Kỹ sưkiểm tra các mẫu và cho phép sử dụng. Các tấm bê tông sẽ được đặt ở cho khô ráo ngoại trừ bề mặt trên cùng được làm ướt ngay tức khắc trước khi trát vữa lên bề mặt đó. Sau khi đã cố định tấm bê tông, không được sử dụng them nước.
Các khối bê tông lớn đúc sẵn sử dụng trong cửa cống dẫn, trong các buồng và trong các công trình sẽ được chế tạo nhờ sử dụng xi măng chống ăn mòn sulphat và sẽ theo các tiêu chuẩn DIN 1146 hoặc tiêu chuẩn như BS 4027, ASTMC 1157/150, loại V.
Các kích cỡ của các khối bê tông sẽ phụ thuộc và các yêu cầu thiết kế, nhưng với độ dày tối thiểu là 140mm cho các tường bao bên ngoài và 100mm cho các tường bao phía bên trong. Bề mặt của các khối bê tông sẽ là 390/190 mm 190 mm (tính theo hệ số mét) hoặc khối đúc lớn với cỡ lớn hơn do người chủ đại diện đồng ý.
Nếu người chủ đại diện không đồng ý, tất cả các khối bê tông của nhà sản xuất sẽ phù hợp với DIN 1045, DIN 4226, BS 882. Các khối bê tông lớn, đúc sẵn sẽ cứng với lực nén tối thiểu là 10.5 N/mm².
Ở những vị trí nơi các khối bê tông đúc lớn được đúc trên công trường, chúng sẽ được sản xuất trong các máy trộn đúc bê tông cỡ lớn.
Tất cả các trường hợp sẽ được tiến hành với các máy trộn bê tông có vỏ bao ngoài. Bê tông sẽ được đổ vào các khuôn trong các lớp mỏng và nén chặt với lực phù hợp. Khi ra khỏi các máy trộn và đúc bê tông, các khối bê tông sẽ được làm đông cứng mọt cách cẩn thận. Sau khi được đặt cẩn thận trên các giá trong các kho, các khối bê tông sẽ được giữ ở trạng thái ướt trong 3 ngày. Quá trình làm đông bê tông sẽ được tiếp tục trong 5 ngày với các khối bê tông trên giá ở ngoài trời được che bởi tấm bạt phủ và vẫn giữ ở trạng thái ướt. Quá trình làm đông bê tông vẫn tiếp tục diễn ra nhờ việc đặt các khối bê tông dưới các tấm che trong vòng 7 ngày mà không tiến hành làm ướt chúng.
Nếu Nhà thầu muốn sử dụng các khối bê tông đúc lớn được làm đông bằng hơi, Nhà thầu cần yêu cầu người chủ đại diện chấp thuận các phương pháp làm đông bê tông đã đề xuất.
Các khối bê tông sẽ được đóng gói cẩn thận để vận chuyền và được bốc dỡ bằng tay trong quá trình vận chuyển để tránh làm hư hại các bề mặt.
Khối đúc lớn sẽ được tạo nên nhờ sử dụng vữa xi măng cát và các khớp nối có độ dày từ 6mm đến 10mm ở phần hẹp nhất của chúng.
Ở những nơi thích hợp, các hàng gạch đá sẽ được đặt theo mức quy đinh hoặc đặt song song với trục của công trình và với các khớp nối song song, sạch sẽ và thông thường. Các khớp nối ngang sẽ được vuông góc nếu thích hợp.
Ngay trước khi được đăth xuống, các khối bê tông sẽ được rửa sạch bằng nước và trước khi tiếp tục với từng phần công việc được hoàn thành, khớp nối đáy sẽ được rửa sạch.
Các hàng gạch đá được xây dựng đều nhau và không có phần nào của bức tường trong suốt quá trình đặt nâng cao hơn 1m so với các phần còn lại của bức tường. Không có các mảnh vỡ của các khố bê tông trừ khi cần thiết cho việc gắn kín các khe. Các khớp nối thường không quá 6mm ở đáy và 10mm ở các đầu hay những chiều như vậy phải được người chủ đại diện đồng ý.
Tất cả các khớp nối sẽ hoàn toàn được lấp đầy bởi vữa.
Tất cả các khối đúc lớn sẽ được bảo vệ trong quá trình ăn mòn do mưa, tuyết … nhờ lớp bao phủ phù hợp. Quá trình làm đông bê tông kết thúc sẽ tạo ra bê tông hoàn chỉnh. Người chủ đại diện có thể yêu cầu tất cả các khối lắp đặt nên được dừng lại trong điều kiện thời tiết giá lạnh
2.2. Vữa xi măng
Vữa xi măng gồm xi măng và cát đong nhờ thể tích của các hộp gỗ với tỷ lệ 1 xi măng: 3 cát. Ở những nơi yêu cầu (bất kỳ nơi nào yêu cầu bê tông sẽ được tiếp xúc với nước thải và gas sunphat…), xi măng chống ăn mòn do sunphat nên được sử dụng trong các môi trường dễ ăn mòn. vữa sẽ được đo cụ thể trong các họp đo sẵn và được trộn kỹ trong một máy trộn cơ học hoặc được trộn khô trên các tấm trộn kho và sạch sẽ cho phép sử dụng, sau đó them nước và trộn cho đến khi các thàh phần hoàn toàn kết dính với nhau và có một độ ổn định phù hợp. Không được phép gia nhiệt một phần hoặc toàn bộ vữa đã trộn.
Vữa sẽ được trộn cho đến khi màu sắc và độ kết dính đồng nhất và sẽ chỉ được trộn khi được yêu cầu. Vữa sẽ đáp ứng các yêu cầu của lớp bê tông B25.
2.3. Chất dẻo hóa vữa
Chất dẻo hóa vữa sẽ theo các tiêu chuẩn lien quan DIN và không chứa clo. Chất dẻo hóa vữa chỉ được sử dụng khi Kỹ sưđồng ý. Chất dẻo hóa sẽ được sử dụng một cách nghiêm ngặt theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
2.4. Cát sử dụng để trộn vữa
Cát phải phù hợp với DIN 4226 hoặc có chất lượng tương đương. Tất cả các loại cát sử dụng để trộn vữa sẽ được làm sạch, cát với hàm lượng silic tốt, sắc và chất lượng tương đương với các mẫu sẽ được đưa ra để Kỹ sưchấp nhận trước khi sử dụng cho các hạng mục công trình.
Cát được sinh ra do đá, đất, bụi, muối, đất mùn, các chất hữu cơ hay bất kỳ chất nào và sẽ được sang lọc qua thiết bị sang lọc và rửa sạch theo yêu cầu của Kỹ sư giám sát.
2.5. Đá vôi để pha trộn vữa
Đá vôi là loại khô, vôi tôi nhanh hơi dẻo hoặc vôi đã thủy phân theo DIN 1060 hoặc loại tương tự.
Đá vôi để trộn vữa sẽ được đưa vào một hố thích hợp trên công trường hoặc để vào trong một bình chứa phù hợp với yêu cầu kỹ thuật ngay sau khi nó được vận chuyển đến công trường. Nước được cấp vào bình chứa hoặc hố đã đào sẵn và vôi se được cho vào cho đến khi hoàn toàn chìm xuống và được quấy trộng cho đến khi tất cả các tạp chất nổi lên phía trên. Vôi màu sữa thu được sẽ được lọc lại một lần nữa và chuyển đến một hộ hoặc một bình chứa khác và giữ sạch và đặc trong khoảng 4 tuần trước khi sử dụng.
Đã vôi thủy phân sẽ được bổ sung them nước trông một bình chứa sạch trộn kỹ để đạt độ đồng nhất thích hợp. Vôi không được sử dụng sau 16 giờ và phải luôn được giữ sạch và ướt.
2.6.Vữa chống ăn mòn hóa học
2.6.1.Khái quát chung
vữa chống ăn mòn hóa học sẽ được sử dụng trong các môi trường dễ bị ăn mòn cho các điểm bọc của khối đúc lớn trong các cấu trúc dưới đất và cho lớp trát ngoài của các bề mặt bê tông gồn bê tông khối đúc lớn, hay ở những nơi việc lắp đặt thiết bị đánh dấu dẻo là không thể thực hiện được.
Mục đích của vữa là chống ăn mòn sinh học trong moi trường chất thải đầy khuẩn có chứa axit sunphuric nồng độ 10% (w/w) và nhiệt độ lên đến 35 độ C. vữa chống ăn mòn hóa học sẽ là loại do người chủ đại diện chấp thuận sử dụng.
Những điều khoản nhỏ dưới đây bao gồm tất cả các yêu cầu đối với vữa chống ăn mòn hóa học cho quá trình rải lớp đáy, nối hay lát gạch, các khối bê tông đúc lớn hoặc gạch sử dụng trong việc sắp xếp thứ tự ăn mòn trong các ống thoát nước, cửa cống dẫn, các buồng và các cấu trúc đã được lựa chọn. Loại vữa này có thể được sử dụng và được làm đông trong đập chứa nước hay trong các điều kiện ẩm ướt. Vữa cần cho việc trát có thể được sử dụng với sung phun vữa thông qua một vòi phun có đường kính nhỏ có thể kéo đến tận đáy của bình chứa vữa.
2.6.2. Nhà thầu cần cung cấp thông tin
Ở những điểm mà Nhà thầu muốn nộp các kết quả thử nghiệm đã được tiến hành trên các vật liệu để chế tạo vữa chống ăn mòn hóa học, các kết quả này sẽ được nộp với các giấy chứng nhận từ những thử nghiệm độc lập sử dung trong các phòng thí nghiệm.
Nhà thầu sẽ sắp xếp các mẫu của vữa chống ăn mòn hóa học thử nghiệm trong các phòng thí nghiệm được sự chấp thuận của Người chủ đại diện và thích hợp với mục đích phù hợp với các thông số kỹ thuật được thiết lập để làm hài lòng chủ đại diện trước bất kỳ sản phẩm nào sử dụng trong các hạng mục công trình.
Các mẫu tiếp theo sẽ được lấy trong thời kỳ của một ứng dụng với mức một mẫu với 1,000 kg vữa vận chuyển đến để sử dụng và thử nghiệm bởi tất cả hay bất kỳ các thủ tục cần thiết nào để thiết lập sự phù hợp với những thông số kỹ thuật này theo yêu cầu của chủ đại diện. Nếu bất kỳ mẫu nào không phù hợp, ứng dụng này sẽ tạm dừng sử dụng cho đến khi đạt được tính phù hợp và đáp ứng được các thông số kỹ thuật đã được thiết lập để làm hài lòng chủ đại điện.
Bất kỳ mẫu vữa chống ăn mòn hóa học nào do Nhà thầu cung cấp để nhận được sự đồng ý của chủ đại diện sẽ được kèm với một bộ văn bản hoàn chỉnh mô tả về các sản phẩm do nhà sản xuất đưa ra. Ngoài các bảng dữ liệu chuẩn của nhà sản xuất, các chi tiết về quá trình lắp đặt ở những nơi sử dụng vữa và bất kỳ điều gì liên quan đến tính ổn định của nó sẽ được đề cập đến.
2.6.3. Mô tả về vật liệu và các đặc tính
Vữa chống ăn mòn hóa học sẽ là một loại hợp chất rất kết dính của vật liệu giống như nhựa của các loại cây, là một chất lắng và có thể chứa các chất bột khoáng được lựa chọn phù hợp. Khi được trộn lẫn các thành phần này sẽ tạo thành một loại vữa với khả năng làm việc phù hợp với phương pháp đã đề xuất dành cho ứng dụng và vữa này sẽ được làm cứng.
Chất nhựa lỏng sẽ là một dung môi lỏng có khả năng tạo thành một loại vữa chống ăn mòn hóa học khi trộn với một chất xúc tác phù hợp và nếu được yêu cầu có thể trộn them chất khoáng bột. chất khoáng bột nếu được sử dụng có thể sẽ tương thích với chất nhựa lỏng, về độ chống ăn mòn hóa học cần và của cỡ cho phép việc chuẩn bị cho một mối nối có độ dày nhỏ nhất là 3mm. vữa được trộn sẽ không có tác dụng ngược lại và không chịu ảnh hưởng của các vật liệu xây dựng khác mà nó sẽ tiếp xúc gồm các thiết bị đồ gá và các thiết bị lắp ghép.
Màu sắc của các thành phân riêng biệt để tạo nên vữa là hoàn toàn khác nhau nên hỗn hợp đồng nhất cuối cùng cần được kiểm tra cẩn trọng và rõ ràng. Màu sắc của hỗn hợp vữa chống ăn mòn hóa chất đã được trộn sẽ khác rất nhiều màu của gạch và đá lát.
Các thành phần không được trộn của vữa có tuổi thọ rất ngắn sau khi vận chuyển đến công trường sau 12 tháng lưu kho ở nhiệt độ từ 5 °C đến 45 °C.
ở những nơi đề xuất áp dụng vữa để trát, thời gian làm việc sau quá trình trộn sơ chất nhựa, chất bột khoáng và chất đông cứng tối thiểu là 60 phút ở nhiệt độ 20 độ C và 30 phút nếu ở nhiệt độ 45 độ C.thời gian bảo quản của vữa được coi là quá hạn khi không thể dùng vữa cho một bề mặt đã được chuẩn bị sẵn mà không làm cong phía sau của thiết bị trát theo DIN.
Nếu được đề xuất, điều nhận được sự chấp thuận của chủ đại diện, để áp dụng một số phương pháp sử dụng vữa (ví dụ: qua các súng phun vữa), thời gian làm việc sau quá trình trộn là lượng thời gian phù hợp cho phương pháp đã được đề xuất của ứng dụng.
Vữa sử dụng ở bất kì thời gian nào trong suốt thời gian bảo quản có những đặc tính cụ thể khi được làm đông đặc.
vữa chống ăn mòn hóa học sẽ tạo nên một liên kết với gạch, đá lát hoặc bê tông, hoặc với bề mặt được bê tông hóa, với một lực rất nhỏ, là đối tượng của một lực tương đối thấp, 3 N/mm².sẽ đạt được sự liên kết này mà không kể đến việc vữa được dùng ở bề mặt khô, ở đập hay ở bề mặt ướt mà không cần lót hay các quá trình chuẩn bị bề mặt khác. lực liên kết sẽ được thử nghiệm và đo đạc theo ASTM C321 sử dụng các mẫu của các vật liệu xây dựng thực.
vữa sẽ có lực nén tối thiểu là 15 N/mm², lực chịu kéo là 5 N/mm², hệ số đàn hồi tối đa là 9k N/mm² khi thử nghiệm và đo đạc lần lượt theo các tiêu chuẩn ASTM C 579, C 307 và C 580.
vữa đông đặc có khả năng chống lại mọi sự tấn công của các chất có thể hay có hoặc hiếm khi có trong nước thải, hoặc chất có thể hình thành ngay trong hệ thống nhờ chuỗi các phản ứng sinh, lý hóa. đặc biệt, vữa sẽ có khả năng chống lại sự tấn công từ việc tiếp xúc với axit sunphuric với các nồng độ lên đến 15% dầu, chất bôi trơn và dầu hỏa.
Vữa chống ăn mòn hóa học sẽ được thử nghiệm và đo đạc theo ASTM C 267. các thí nghiệm được tiến hành sử dụng nồng độ axit từ 5 % đến 15 % ở các nhiệt độ 20 °C, 40 °C và 70 °C và dung xăng ở 20 °C. mức thay đổi tối đa về khối lượng, lực nén đầm và lực liên kết sẽ được đo sau từ 7, 28, 56 và 84 ngày. Các kết quả của các cuộc thử nghiệm đối với xăng và mỗi nồng độ axit và nhiệt độ sẽ được biểu diễn trên một biểu đồ, mỗi khi thời gia trôi qua và nộp để nhận được sự chấp thuận của chủ đại diện.
Khi quá trình bạc màu và việc bề mặt không còn sáng bóng của những mẫu thí nghiệm được chấp nhận, sẽ không còn có các hiện tượng như đứt gãy bề mặt, sự mài mòn, sự mòn rỗ hay mềm bề mặt của các mặt tiếp xúc. Nếu dung dịch thí nghiệm bị bạc màu trong quá trình thí nghiệm, dung dịch của thí nghiệm sẽ được thay mới và không còn hiện tượng bạc màu.
Độ co lại của vữa sẽ không quá 0.5 % khi thử nghiệm sau quá trình làm đông bê tông trong 84 ngày ở nhiệt độ 70 °C, và được đo theo ASTM C 531. Hơn nữa, vữa sẽ chống lại kiểu thí nghiệm này được mô tả ở trong ASTM C 883.
Vữa đông đặc có độ hấp thụ không quá 3% khi được thử nghiệm và được đo theo ASTM C 413.
Vữa lỏng chống ăn mòn hóa học có đặc tính về giãn nở nhiệt như trên có thể chống lại những thử nghiệm được mô tả trong ASTM C 884.
Vữa đạt được độ cứng hoạt động trong thời gian không quá 7 ngày ở nhiệt độ từ 10 °C to 45 °C trong các điều kiện ẩm ướt hoặc khô ráo khi được thử nghiệm và đo đạc theo ASTM C308. Các đặc tính của vữa đông đặc không bị hư hại bởi việc làm đông bê tông trong các điều kiện ẩm ướt hoặc khô ráo ở nhiệt độ từ 5 °C đến 45 °C.
2.6.4. Thử nghiệm
Các yêu cầu thử nghiệm đối với vữa lỏng chống ăn mòn hóa học được miêu tả trong các điều khoản ở trên. Để thuận lợi những thử nghiệm này được tóm tắt dưới đây, đưa ra các tiêu chuẩn ASTM liên quan theo đó các thử nghiệm này được tiến hành.
Chống các hóa chất: ASTM C 267
Thời gian làm việc và lắp đặt: ASTM C 308
Cường độ kết dính: ASTM C 321
Độ hấp thụ: ASTM C 413
Độ co: ASTM C 31 and C 883
Cường độ chịu nén: ASTM C 579
Cường độ chịu kéo: ASTM C 307
Hệ số giãn nở: ASTM C 580
Tương thích nhiệt: ASTM C 884
Thử nghiệm được tiến hành để nhận được sự chấp thuận của người chủ đại diện trước khi sản phẩmđược sử dụng trong các công trình.
Cuối cùng thử nghiệm sẽ được tiến hành ở mức một loạt các cuộc thí nghiệm/1000 kg vữa được vận chuyển đến công trường thi công.
2.6.5. Bảo quản và ứng dụng
Các thành phần đơn của vữa chống ăn mòn hóa học sẽ được cung cấp theo số lượng được đo trước và được đóng gói bởi nhà sản xuất theo các đơn vị phù hợp với giải pháp của ứng dụng. Không được phép chia nhỏ lượng vữa này để trộn thành các phần nhỏ hơn.
Tất cả các bao vữa cần đánh dấu một cách rõ ràng về cỡ, hàm lượng. Hướng dẫn pha trộn, cảnh báo về độ an toàn, các yêu cầu về kho chứa à thời hạn sử dụng.
Cần nghiêm ngặt tuân thủ các hướng dẫn của nhà sản xuất về kho chứa cho từng thành phần riêng biệt của vữa. Trong tất cả các trường hợp, việc lưu kho cần được giữ trong điều kiện khô ráo, thoáng mát với các bình chứa được hàn cẩn thận và tránh xa lửa. Các thành phần đã quá hạn sử dụng hoặc đã ướt sẽ không được sử dụng.
Cần làm theo các hướng dẫn về sử dụng vữa an toàn của nhà sản xuất. Các công nhân phải đeo găng tay khi làm việc với các sản phẩm. Trong các khu vực làm việc và trong các khu vực xáo trộn, cấm lửa và cần một quá trình thông gió đầy đủ.
Việc trộn vữa sẽ được tiến hành nghiêm ngặt theo các hướng dẫn của các nhà sản xuất. các mức nhiệt độ của các thành phần sẽ giống như nhiệt độ của vữa trộn là khoảng từ 15 độ C đến 40 độ C. việc trộn cần được làm cẩn thận và hoàn thành như việc vữa có một màu đồng nhất và không có các bọt khí và không đóng cục. Không được phép thêm các vật liệu như cát, xi măng, nước vào trong hỗn hợp trong bất cứ trường hợp nào. Không được phép tăng nhiệt độ của vữa đã trộn không còn có thể làm việc được bằng một chất keo lỏng hay bất kỳ vật liệu nào. Khi vữa không còn tác dụng, nó không còn được sử dụng và phải bỏ đi.
Cần theo sát các hướng dẫn của nhà sản xuất cho quá trình chuẩn bị cho bề mặt và cho các ứng dụng và cho việc kéo dài thời gian sử dụng của vữa. các khớp nối sẽ bị đào ra hoàn toàn ở độ sâu 25mm. các bề mặt để đổ vữa lên phải không có bụi, đá vụn, mỡ bôi trơn, dầu và các vật liệu có thể ngăn cản quá trình hình thành một kết nỗi tương đối chắc. Ở những nơi có bề mặt ướt hoặc nhiều bùn, những biện pháp đặc biệt do nhà sản xuất gợi ý dành cho những điều kiện này cần được tuân thủ chặt chẽ. Nhà thầu cần kiểm tra các khớp nối cẩn thận trước khi đổ vữa. Sẽ đạt được một bề mặt nhẵn, bằng phẳng, bề mặt bằng đối với tất cả các khối hoặc các tấm gạch lát.
Các hướng dẫn của nhà sản xuất để làm cứng vữa cần được tuân thủ chặt chẽ. nhiệt độ trong quá trình làm cứng vữa sẽ được giữ ở nhiệt độ từ 5 độ C đến 40 độ C. cần chế độ giám sát đặc biệt với việc vữa đông cứng trong điều kiện đầm lầy và ướt.
3. ĐƯỜNG LÀM VIỆC
Đặc điểm ký thuật đối với đường làm việc sẽ phục vụ cho việc thiết lập lại đường để lát nền, cho được tiếp cận và các đường tạm thời.
3.1.Dọn dẹp và đào bới
Dọn dẹp đối với các đường làm việc sẽ được thực hiện phù hợp với điều khoản 1.1 của Đặc diểm kỹ thuật.
3.2. CÔNG VIỆC THI CÔNG CÁC ĐƯỜNG ĐI
Công việc thi công các đường đi nhìn chung sẽ phải phù hợp với điều khoản 1 của Yêu cầu kỹ thuật.
Nơi có tỷ lệ khô tự nhiên của mặt đất trong phạm vi 0.3m.Mức độ tạo thành độ sâu dưới 90% được xác định trong DIN 18126, vật liệu thứ cấp này sẽ được gia công lại và được rắn chắc tới 90%.
Dưới độ sâu 0,3m, mức độ đông cứng tối đa đạt 90%.Còn trong phạm vi 0,3m, mức độ đông cứng sẽ dật tối đa 95%.
Trong quá trình đông cứng ở khu vực phía dưới, cần đặc biệt chú ý vào lớp nền đất tự nhiên được nén với độ dốc nhỏ để đảm bảo thoát nước dễ dàng.
Các vật liệu được đào lên từ mặt đường phù hợp để lấp các hố đào sau khi đã đặt đường ống. Điều này vẫn luôn được áp dụng trong thực tế.
3.3. HOÀN THIỆN VÀ BẢO VỆ LỚP NỀN
Khi lớp nền rắn chắc đúng như nhiệt độ yêu cầu, bề mặt công trường sẽ có hình dáng song sóng với bề mặt được hoàn thiện của lớp phủ mặt đường và có mức độ chính xác và mặt cắt ngang.
Bề mặt hoàn thiện của nền đường công trường sẽ được phê duyệt với nhà thiết kế trước khi làm các vật liệu nền.Một khi nền đường đã được đông cứng, sẽ được bảo vệ và sẽ được giữ giáo nước.Thực vật và các vật liệu sẽ không được lưu giữ trên mặt đường.Phương tiện giao thông của Nhà thầu sẽ không được phép đi qua các nền đường đã được hoàn thành trừ khi được sự đồng ý của Nhà thiết kế.
Bất cứ một sự hư hại nào thì Nhà thầu đều phải gánh chịu chi phí và trách nhiệm khắc phục.
3.4. VẬT LIỆU VÀ XÂY DỰNG NỀN DƯỚI
Vật liệu của các đường đắp cao và liên kết chỉ là loại vật liệu do nhà thiết kế phê duyệt.Vật liệu này sẽ được trải và đông cứng với độ dày và mức độ cụ thể.Nếu cần thiết, nước sẽ được bổ sung thêm.
Vật liệu bằng bột được sử dụng trong lớp nền dưới của công trường phù hợp với các yêu cầu cụ thể trong DIN 4226. Tất cả các vật liệu được đặt, trải và đông cứng: việc trải trên công trường sẽ được thực hiện đồng thời tại chỗ.Vật liệu này sẽ được trải một hoặc hơn một lớp.Vì vậy sau khi đông cứng độ dày sẽ đạt yêu cầu. Độ đông cứng của lớp trải dưới của công trường sẽ là 98%, phù hợp với DIN 18126 và sẽ được hoàn thành càng sớm càng tốt sau khi và được hoàn thành càng sớm càng tốt sau khi vật liệu giãn nở. Khi máy đầm không đủ công suất các nền phía dưới sẽ được chia thành hai hay nhiều lớp nhỏ. Trong thời gian xây dựng lớp nền sẽ được duy trì trong một điều kiện cho phép nó thoát nước bất kỳ thời gian nào. Lượng nước chảy ra được dẫn ra khỏi khu vực thi công trong suốt thời gian thi công để ngăn chặn xói mòn.
Lớp nền sẽ được thoát nước. Tất cả các thiệt hại do nước gây ra ở những nơi không thể đầm để đạt đến mật độ yêu cầu, sẽ được xử lý và sửa chữa. Lớp nền sẽ được làm sạch các chất bẩn lấp đầy các ổ gà, các hố, những chỗ cong vẹo, những chỗ sạt lở hay bất kỳ hư hỏng nào khác. Nhà thầu phải đào xới, làm thẳng, cung cấp nước, tạo độ dốc và đầm lại nền đường. Trong định mức chi phí dành cho công trình để làm hài lòng Kỹ sư.
Không được tiến hành bất cứ việc gì trên nền được cho đến khi Kỹ sư kiểm tra và chấp nhận.
3.5. Yêu cầu về đầm nén
Máy đầm rung sẽ được sử dụng nếu Kỹ sư đồng ý. Số lượng của những làn đường được làm, được quyết định thông qua các đặc điểm của máy đầm và vật liệu được sử dụng.
Nếu cần thiết, các mẫu thử nghiệm sẽ được sử dụng để quyết định phương pháp đầm tối ưu. Bề mặt của bất kỳ lớp vật liệu nào, trong quá trình tiến hành đầm nền đường sẽ được kết thúc hoàn hảo, không phụ thuộc vào di chuyển máy đầm và các thiết bị đầm khác.
Tất cả các khu vực hư hỏng khác sẽ được sửa chữa để đạt độ dầy của lớp nền đường và chúng sẽ được đầm lại.
Độ dầy đầm tối đa của bất kỳ lớp nào là 25cm. Các lớp phía dưới sẽ được đầm từ ờ dốc này đến bờ dốc khác ở độ ẩm thích hợp lớp này sẽ được đào lên và trộn nước hoặc để vật liệu tự khô đến độ ẩm thích hợp. Lớp này sẽ được đầm lại. Bề mặt cuối cùng sẽ có độ dốc mong muốn.
Ở những điểm các bản vẽ được chỉ định bởi Kỹ sư giám sát, quá trình hoàn thành này sẽ được hoàn thành mà không cần bổ sung bất kỳ lớp nền nào hay gờ đường. Nhà thầu sẽ hoàn thành thông qua quá trình thoát nước và đầm lại bằng một xe lu 12 bánh chạy êm trên 4 rãnh. Không cho phép những trường hợp ngoại lệ có sai sót hay có dung sai lớn hơn 12mm nếu đo bằng một thước thẳng 3 m.
3.6. VẬT LIỆU VÀ XÂY DỰNG NỀN ĐƯỜNG
Vật liệu nền sẽ gồm một trong những loại vật liệu sau đây:
- Nền bằng cát vàng.
- Đá nghiền
- Nền cát vàng trộn xi-măng
Nền đường thô là lớp nền trên cùng hỗ trợ giao thông và là lớp ngay dưới lớp phủ bề mặt. Độ dày tối thiểu của quá trình nén thích hợp là 150mm.
Lớp nền thô bằng đá nghiền hoặc cát vàng đã được chọn có độ dày tối thiểu là 150mm hoặc theo yêu cầu về điều kiện của lớp đất sẵn có. Nếu độ dày của nền đường thô được yêu cầu lớn hơn 150mm, vật liệu sẽ được đặt và xử lý thành hai hay nhiều lớp.
Các vật liệu sử dụng là từ một nguồn do Nhà thầu cung cấp và được Kỹ sư chấp nhận. Vật liệu này không đàn hồi. Cỡ vật liệu lớn nhất không quá 60mm. Các vật liệu này gồm hỗn hợp cát vàng hoặc cát và đá nghiền. Lớp vật liệu này là vật liệu tạo độ dốc tốt phù hợp với các yêu cầu sau.
- Giá trị CBR sau 24 giờ trộn lớn hơn hoặc bằng 80%
- Giới hạn chất lỏng và chỉ số đàn hồi lần lượt không quá 25% và 8%.
- Các giới hạn độ dốc sẽ là:
Lớp nền bằng cát vàng hoặc đá nghiền đã được lựa chọn sẽ được đầm để đạt đến độ khô tối đa 100%.
Quá trình đầm nén nhờ quá trình cấp nước và nghiền cho đến khi không còn nhìn thấy những chuyển động của đá được nén và đá làm vật liệu cho nền đường được trộn trong xe lu. Lớp cát cuối cùng sẽ được trộn để lấp đầy các chỗ rỗ trên mặt đường.
Lớp nền bằng cát vàng trộn với xi-măng có độ dầy tối đa là 150mm hoặc độ dầy này là do yêu cầu bởi những điều kiện của bề mặt hiện tại. Lớp cát vàng này sẽ đáp ứng được các thông số kỹ thuật nêu trên và được làm ổn định 6-8% xi-măng Ba Lan. Để đạt được một hỗn hợp đồng nhất của các vật liệu và nước. Xi-măng hỗ trợ cho lớp cát sẽ được sản xuất trong một máy trộn đất sét, được chuyển đến nơi đổ bê tông và được nén 100% để đạt được độ khô tối đa.
Nếu điều kiện công trường cho phép và Kỹ sư đồng ý, lớp nền thô bằng xi măng trộn cát vàng có thể được trộn ngay tại công trường nhờ việc sử dụng các máy xới quay và các thùng chứa nước để thu được một hỗn hợp hoàn hảo. Yêu cầu đầm nén không thay đổi tức là độ khô ráo vẫn là 100%.
Vật liệu sẽ được trải và dàn đều, quá trình dàn vật liệu được tiến hành đồng thời với quá trình đổ bê tông. Vật liệu dành cho nền đường sẽ được trải một cách thích hợp trên một lớp sử dụng một thiết bị có ích hoặc một thiết bị tương tự. Vật liệu sẽ được trải để sau khi kết thúc quá trình nén đầm, có thể đạt được độ dày của lớp nền. Nhà thầu sẽ sắp xếp công việc theo cách mà các khớp nối theo chiều dọc có thể giúp chống lại việc đông cứng vật liệu càng lâu càng tốt. Nếu không thể làm được điều này thì trước khi tiến hành công việc cần tiến hành bước trung gian để chống lại sự đông cứng vật liệu nếu nó được để ngoài không khí hơn 1 giờ, cần cắt ngắn theo chiều ngang để tạo ra một bề mặt tương đương với độ dày cụ thể của lớp nền của loại vật liệu nén thích hợp.
Quá trình đầm nén lớp nền đường tới mức nhỏ nhất của độ khô tối đa 100% sẽ được hoàn thành càng sớm càng tốt sau khi vật liệu đã được trải ra. Thiết bị đầm nén sẽ không thể trực tiếp chịu được vật liệu cứng hoàn toàn hoặc cứng một phần trước khi lắp đặt hơn là điều cần thiết để đạt được mức đầm cụ thể của một khớp nối. Cần đặc biệt chú ý để đạt được quá trình nén hoàn toàn trong vùng lân cận của các khớp nối dài và các khớp nối ngược. Nhà thầu sẽ sử dụng máy đầm loại nhỏ đặc biệt nếu cần thiết và nếu Kỹ sưyêu cầu.
Bất cứ vật liệu nào được nén không chặt hoặc nén hời hợt ở các vùng lân cận của các khớp nối xây của công trình sẽ được tháo bỏ và thay thế bằng vật liệu mới. bề mặt của bất kỳ lớp vật liệu nào sẽ được đầm nén cẩn thận, không cản trở sự di chuyển của máy đầm, máy tạo làn đường, đá ngầm, các vết đứt gãy hay mất vật liệu. Tất cả các khu vực hư hỏng và hỏng hóc khác sẽ được làm lại để đạt được độ dày mong muốn và được đầm lại. nếu việc này không được thực hiện trong hai giờ sau khi trộn hỗn hợp vật liệu, hỗn hợp gồm các phần để lấp chỗ trống này sẽ không thể sử dụng để đạt được độ dày mong muốn của bề mặt đường, nó sẽ bị loại bỏ và thay thế bởi hỗn hợp vật liệu mới được đâm lại để đạt được các thông số kỹ thuật.
Lớp nền thô sẽ, ngay lập tức hoàn thành hoặc sẽ hoàn thành, sẽ đông lại trong ít nhất là 7 ngày nếu không cần phải được sự chấp thuận của Kỹ sư. Quá trình làm đông bê tông đạt được thông qua việc bao phủ bởi một lớp vải bạt không thấm nước đủ để bảo vệ khỏi bay khỏi bề mặt các khớp nối ở mức ít nhất 300mm và có thể ngăn cản sự xâm nhập của không khí ẩm theo các điều khoản trong các thông số kỹ thuật về bê tông hay thông qua quá trình phun một lượng hỗn hợp bê tông cho phép.
Không được chống lại các điều nói trên, Nhà thầu cần phải xây dựng nền đường với những yêu cầu và thông số kỹ thuật của cơ quan và chính quyền có liên quan. Các thông số kỹ thuật dưới đây sẽ được tuân thủ chỉ khi thiếu bất kỳ yêu cầu cụ thể nào từ những cơ quan chức năng nói trên.
Nhà thầu có trách nhiệm bảo dưỡng mặt đường cho đến khi nhận được bằng công nhận kết thúc công trình.
3.7. Áo đường rải alphat/to bề mặt bằng nhựa đường
3.7.1. Vật liệu và quá trình xây dựng
(a) Lớp kết phụ bitum được áp dụng trên lớp nền thô đã được thoát nước sạch sẽ và được phân cấp. Lớp kết phụ gồm các nhũ bê tông CSS-1 hoặc nhũ bê tông CSS-1h trộn với một lượng nước tương đương. Lượng chất bitum gồm lượng nước tính theo m² sẽ tăng lên mức 0.8 lit. Tách lượng này theo yêu cầu của Kỹ sư.
(b) Bề mặt lớp nền thô sẽ được cấu thành từ bột khoáng chất và chất bitum trộn trong máy trộn trung tam và các phần sẽ theo các bản vẽ. Lớp nền thô được phân tách sâu hơn thành hai lớp theo yêu cầu của Kỹ sư và mỗi lớp sẽ được xử lý kỹ hơn và phải được kiểm tra và có được sự chấp thuận trước khi rải lớp tiếp theo lên.
(c) Kết trộn gồm đá nghiền hoặc đá chứa cát hoặc đá không chứa cát và các chất chứa khoáng khác. Kết trộn là những thành phần khá thô ráp có nguồn gốc từ đá vôi và chất hữu cơ và không chiếm đến 8% khối lượng của các tấm dài và mỏng. kết trộn của nền đường chính không cho thấy mức ăn mòn quá 40% và không có dấu hiệu của việc không kết dính hay không cho thấy tỷ lệ hao hụt natri sunphat quá mức 9%.
(d) Hỗn hợp bitum được cấu thành từ một hỗn hợp của kết trộn bột khoáng và các chất bitum khác. Các phần bitum sẽ được ấn định cỡ đồng nhất và được kết hợp với những thành phần mà hỗn hợp cuối cùng đáp ứng mức tạo độ dốc của công thức pha trộn. Tỷ lệ hao hụt của các vật liệu sẽ tạo nên một đường cong tương đối khi biểu diễn trên biểu đồ về sự hao hụt vật liệu theo hàm loga bậc hai.
(e) Quá trình làm nát kết trộn sẽ cho một sản phẩm, sản phẩm này có kết trộn dành cho nền đường chính (giữ ở cỡ sàng No.8) sẽ chứa ít nhất 75% khối lượng các phân tử với ít nhất 90% khối lượng các hạt vói một hay nhiều bề mặt đứt gãy. Khi cần bột khoáng, bột khoáng này sẽ gồm bụi đá, xi măng Ba Lan hay các vật liệu thay thế khác được cho phép sử dụng. Xi măng alphat sẽ có mác từ 60- 70.
(f) Công trình sẽ không bắt đầu cho đến khi Nhà thầu nộp các mẫu của các vật liệu và công thức pha trộn cho mỗi hợp chất cho Kỹ sư và nhận được sự chấp thuận của Kỹ sư. Các công thức pha trộn phù hợp đã được chấp nhận sẽ không được thay đổi.
(g) Các tỷ lệ hao hụt trong bảng dưới đây thể hiện các giới hạn xác định phù hợp của kết trộn. Các tỷ lệ hao hụt cuối cùng sẽ không khác nhau từ thấp đến mức giới hạn thấp đến một cỡ sàng lọc đến mức giới hạn cao giới hạn trên liền kề sàng lọc hoặc ngược lại. Sự lựa chọn bất kỳ tỷ lệ hao hụt là như vậy mà dung lượng tối đa kết trộn được sử dụng sẽ không nhiều hơn một nửa của độ dày của lớp bề mặt đang được đầu tư xây dựng.
(h) Hàm lượng bitum trong hỗn hợp sẽ được tính toán Theo phần trăm của thành phần cơ bản trên tổng khối lượng của hỗn hợp. Kết trộn khoáng và alphat được kết hợp để phù hợp với những tỷ lệ sau.
Cỡ sàng %lọt sàng/ tổng khối lượng hỗn hợp
12.7 mm 100
9.5 mm 95-100
No.4 70-100
No.8 52-84
No.16 38-56
No.30 37-44
No.50 19-33
No.100 13-24
No.200 8-15
alphat 6.5-9.5
(i) Các lớp thô bề mặt sẽ được xây dựng chỉ khi bề mặt khô và được chấp thuận bởi các Kỹ sư giám sát.
(ii) Hỗn hợp kết trộn sẽ được sấy khô và đun nóng ở máy lát đường trước khi đưa vào máy trộn. Khi được đưa vào hỗn hợp, các kết trộn tổng hợp sẽ không chứa nhiều hơn 0,5% độ ẩm trong asphalt hỗn hợp. Nước trong kết trộn sẽ được loại bỏ do quá trình đun nóng đến mức không tạo hình trong hỗn hợp. Nhiệt độ tối đa và tỷ lệ đun nóng sẽ như vậy và sẽ không bao giờ gây ra thiệt hại xảy ra cho các kết trộn. đặc biệt chú ý đến rằng các kết trộn với hàm lượng can-xi và magie cao không bị hư hại do quá trình đun nóng. Kết trộn sẽ được kiểm tra để xác định kích thước và đổ vào các thùng riêng biệt, sẵn sàng để pha trộn với chất bitum.
(k) Các kết trộn khô sẽ được kết hợp trong máy trộn theo các tỷ lệ của của mỗi phần nhỏ trong kết trộn để đáp ứng đúng tỷ lệ hao hụt cụ thể. Số lượng của mỗi kết trộn sẽ được đo và chuyển vào máy trộn. Các kết trộn sẽ được trộn với vật liệu bitum tại phần trung tấm của máy trộn. Hỗn hợp sẽ được chuẩn bị ở nhiệt độ xác định.
(l) Hỗn hợp sau đó sẽ được vận chuyển từ máy trộn đến những điểm sử dụng trong xe được chỉ định. Nó sẽ được đặt ở nhiệt độ giữa 121 ° C và 149 ° C khi xi măng asphalt được sử dụng. Kỹ sư có thể chấp nhận nhiệt độ thấp hơn. Các nhiệt độ sẽ được duy trì trong suốt hoạt động trải và dàn vật liệu. Hỗn hợp sẽ được chỉ trên các bề mặt đã được làm sạch và khô ráo.
(m) Sau đó, hỗn hợp sẽ được đổ ra và ngay lập tức được trải rộng trên các khu vực chỉ định. Nó sẽ được trải đều thành một lớp để đạt được độ dày cần có.
(n) Sau khi đã trải đều, hỗn hợp được nén đầm kỹ càng và đồng nhất bằng những xe lu công suất lớn theo chỉ dẫn của Kỹ sư. Tốc độ của xe lu ở bất kỳ thời gian nào được làm chậm để tránh sự chuyển dịch của hỗn hợp. bất kỳ chuyển dịch nào xảy ra như kết quả của việc đảo hướng của xe lu hay do bất kỳ nguyên nhân sẽ được sửa chữa cùng một lúc bằng các máy cào và các hỗn hợp mới.
3.7.2. Áo đường trải nhựa Asphalt
Áo đường trải nhựa asphalt bao gồm:
- Lớp bê tông Asphalt
- Lớp kết nối/kết dính
-Lớp chống ăn mòn
Tất cả các làn đường đều là bê tông asphalt, nhưng với các thành phần khác nhau, đặc biệt các thành phần tạo độ dốc và các phần cát. Lớp bê tông Asphalt sẽ được các lớp thô và lớp chống ăn mòn phủ lên để đạt được độ hao hụt ít nhất.
3.7.3. Hỗn hợp Asphalt Bitum nóng
Hỗn hợp bitum dành cho các lớp bề mặt thô sẽ phù hợp với các yêu cầu các hỗn hợp được sản xuất tại địa phương.
Thành phần của các hỗn hợp thường như sau:
- Bột đá bụi
- 5 đến 7% bitum
- 70 đến 75% chất đá vôi màu xám hay màu xanh
- 23 đến 25% cát.
Các hỗn hợp Bitum sẽ, càng gần thực tế càng tốt, thu được từ một nhà máy trộn tại địa phương đã được chỉ định.
Chi tiết liên lạc của nhà sản xuất địa phương (các Nhà thầu phụ) sẽ do Kỹ sư chỉ định. Không có hỗn hợp bitum nào được sản xuất cho đến khi một công thức pha trộn do Nhà thầu gửi đi và được các Kỹ sư chấp thuận bằng văn bản.
Công thức sẽ cho biết chính xác tỷ lệ phần trăm của mỗi sàng nhỏ thành phần và chính xác tỷ lệ phần trăm của asphalt được sử dụng trong hỗn hợp, gồm nhiệt độ pha trộn. Công thức pha trộn trong một phạm vi được chỉ định cụ thể và có tác dụng cho đến khi được các Kỹ sư sửa đổi bằng văn bản.
3.7.4. Các hạn chế về mặt thời tiết
Các lớp Bitum được xây dựng chi khi lớp nền thô khô ráo và khi thời tiết không mưa.
3.7.5. Chuẩn bị
Ngay trước khi áp dụng một bitum cho làn đường, bề mặt thô sẽ được làm sạch kỹ càng và không còn bất kỳ hư hỏng hay có chất bẩn nào. Lớp nền thô được phủ một lớp kết dính của chất asphalt lỏng sẽ nhanh chóng làm đông bê tông. Các Kỹ sư sẽ chấp thuận việc có lớp kết dính này trước khi công trình được khởi công.lớp kết dính được áp dụng chỉ đủ trước khi rải hỗn hợp bê tông asphalt để cung cấp một lớp mỏng đồng đều của xi măng bitum để đảm bảo có một sự kết dính tốt.
Lớp kết nối được áp dụng đồng nhất bởi các thiết bị của một máy phun áp lực bằng tay với 1 lượng không nhiều hơn 0,2 lít cho mỗi mét vuông hoặc nhiều hơn 0,3 lít cho mỗi mét vuông bề mặt, nếu không có chỉ dẫn của Kỹ sư. Nhà thầu sẽ trang bị,thiết lập và duy trì các cọc kiểm soát định tuyến để kiểm tra và sửa bởi các Kỹ sư, để các công trình có thể phù hợp với những dòng hiển thị trên bản vẽ.
Những cọc sẽ được thiết lập trong song song với các đường dây trung tâm của khu vực để được lát, bù đắp và phân phối theo chỉ dẫn của Kỹ sư.
3.7.6. Vận chuyển
Tất cả các hỗn hợp bitum sẽ được vận chuyển từ máy trộn đến máy phun trong các xe tải sạch sẽ, mịn đã được them chất bôi trơn với một lượng tối thiểu của dầu được phê duyệt để ngăn các hỗn hợp gắn chặt vào các xe tải. Mỗi lần nạp sẽ được che phủ bằng vải bạt, hoặc các chất liệu phù hợp, để bảo vệ nó khỏi bụi hay mưa, và để ngăn ngừa thiệt hại do nhiệt gây ra. Giao nhận sẽ được sắp xếp để đổ và cán các hỗn hợp chuẩn bị cho một ngày làm việc trong ánh sáng ban ngày, trừ khi ánh sáng nhân tạo được sử dụng để làm hài lòng với các Kỹ sư. Bất kỳ sự quá tải do mưa ướt sẽ bị loại bỏ. Không cho phép việc kéo mạnh những vật liệu mới được trải xuống nền.
3.7.7. QUÁ TRÌNH RẢI
Áo đường asphalt sẽ được xây dựng phù hợp với độ dày như hiện nay ưu tiên việc loại bỏ và đào lên như được hiển thị trên bản vẽ như một việc cụ thể. Nhiệt độ của mỗi hỗn hợp được đổ ra sẽ theo chỉ dẫn của Kỹ sư, dung sai 10°C.
Máy trải bê tông sẽ được điều chỉnh và tốc độ quy định, vì vậy các bề mặt cần sửa chữa sẽ mịn và sâu, khi được nén, nó sẽ phù hợp với hình chiếu bằng hiển thị trên bản vẽ. Chiều dài của bất kỳ làn đường nào trước khi rải cạnh làn
English to Vietnamese (FOFL- Hanoi University of Scicence and Technology, verified) Vietnamese to English (FOFL - Hanoi University of Science and Technology, verified)
Adobe Acrobat, Adobe Illustrator, Adobe Photoshop, Fluency, Frontpage, Microsoft Excel, Microsoft Word, MemoQ, MS Excel, MS Power Point, MS Word, SDL Trados translation workbench, SDLX, Trados 2007, trados 2009, wordfast, Passolo, Powerpoint, SDLX, Trados Studio, Wordfast, XTM
Get help on technical issues / improve my technical skills
Learn more about additional services I can provide my clients
Learn more about the business side of freelancing
Find a mentor
Stay up to date on what is happening in the language industry
Transition from freelancer to agency owner
Transition from freelancer to another profession
Bio
CURRICULUM VITAE
I. Personal information
- Full name: Ngo Thanh Ha
- Address: No. 28 – Le Loi Street – Dong Tam ward – Yen bai City – Yen Bai Province, Vietnam
- Email address: thanhhabkd1311@gmail.com /thanhhabkd1311@yahoo.com
- Skype: thanhhabk II. Softwares:
Microsoft Word, Microsoft Excel, Microsoft Powerpoint, Adobe Acrobat, Wordfast, Trados 2007/2009 (Idiom software package), Trados 2011, Passolo, X-Bench, SDLX - light version, De Javu, MemoQ, ….
III. Translation rates
- Language pair: English to Vietnamese and Vietnamese to English,
- Translating rate: $0.05 ~ 0.10 per word
- Proofing rate: 0.02$ per word
- Transcribing rate: $2.5 - $5 per minute.
- Hourly rate: 18USD per hour
IV. Education
- 2004 – 2009: Faculty of Foreign Languages, Hanoi University of Science and Technology, Hanoi. Bachelor degree.
- 2009- 2011: Banking Academy, Hanoi, Vietnam, Bachelor in Finance and Banking
- Association of Chartered Certified Accountant, Professional Certificate issued by ACCA UK
- TOIEC – 810 points
- 2005: Certification on Japanese Proficiency – Level 3
V. Work experience
• March – June 2008: Internship: Center for Research and Management Consultancy.
• June – September 2008. Translator cum Secretary: Tran.H.N & Associates Attorney Office, Hanoi
• September – December 2008. Editor – Alphabooks Ltd – a company majoring in publishing management, business, literature books
• February 2009 to July 2011: Project Assistant cum Translator/Interpreter, Viendong Marine and Petrol Engineering JSC
• September to October 2011: project assistant for HHTP SAPI Project of Nippon Koei Co
• March 2012 to 2014: Elematec Vietnam Co., Ltd., Admin cum translator/interpreter
• Freelance translator/Interpreter 2007 to present
• Collaboration with various individuals and organizations: Vietnam Television - Discovery Program, Sankou Inc (Japan), Softitler (India), Starchildren (USA), Terasaki (Singapore), Baldore (Singapore), French Chamber of Commerce and Industry in Vietnam, Alphabooks, Term Wiki, Qutubuddin (India), Ideal Translation (India), Global Lingo (UK), New Fantex Technology (Taiwan), JC Way (Philippines), Global Lingo (UK), 24Lingo (UK), Appen Butter Hill (Australia), CLS Communication (Singapore, Hong Kong, Denmark branches) IcanLocalize (USA), Translated.net (Italy), Breezway (Australia), Wacker (Germany)…and many other domestic and foreign translation agencies.
Services: translation, Interpretation, transcription, editing/proofreading, SEO
Specialty fields: social sciences, medical, life science, law (general), medical, civil engineering, business, telecommunications, marketing, finance, banking, computer science, automotive, environment & ecology, education, tourism & travel, entertainment, agriculture machinery, government, iPhone apps, movie/film-making, advertising, questionnaire, survey, gaming, travel, construction, ….
VI. Some selective projects
* Forex document for website: http://forexnature.com
* Translation and localization for website:Breezway.com.au
* Localization for forex website: http://www.markets.com/: ongoing job
*Localization and translation for smartphone apps/web translation for Icanlocalize.com: Ongoing tasks.
* Electronic medical record training course of Ford Motor (English to Vietnamese via Vie Support Language Services Pvt Ltd)
* Translation and localization for KakaoTalk/Viber App app: Ongoing task
* Localization and translation of documents (specifications, manual, release, updates…) related to all Huawei products (smartphones,transmission/reciever/modems): around 400k words
*Vietname fertilizer regulation (Vietnamese to English): 11k words
* Translation financial and accounting documents for Vietnam Bank for Social Polices
*Personal Accounts/Small business account – Bank of America Corporation
(in collaboration with Ms Hoang Hoa) – Volume: 17000 word from English to Vietnamese
* Translation and localization of website: http:www.bodog88.net, English to Vietnamese for JC Way Translation (Philippines): Ongoing
*Proofreading for website http://livedealersicbo.com/ (Comstranslation – USA), English to Vietnamese, 18k words
* Translation and subtitling for many films of Deluxe Digital Studio (India and USA): Ongoing
* Video games translation and localization (English to Vietnamese) for http://teamfiftyseven.com/loc.html: ongoing
* Roles of supervisors’ in the development of Securities Market in Vietnam, langue: Vietnamese – English, volume: 10000 words (Hoa Viet translation Co.)
*Medical documents related to diabetes (reditux medicine) for Mother Tongue (India); Volume: 8000 words
* Payment processing for ZONG Mobile payment via Translia.com ( English – Vietnamese), volume: 10000 words
*Books translated: Li Ka Shing – Chapter 7: 20,000 words, How to get to the top (book): 20,000 words, English to Vietnamese, for Alphabooks Company Limited (Vietnam)
*Editing and proofreading for the Sea Border Law Enforcement Module - Training Course Outline for Improved Border Control (English – Vietnamese – 110k words)
*Books edited and proofread: 25 ways to win with people (reviewing), Quantum success (editing): 50, 000 word for Alphabooks Company Limited (Vietnam).
*iPad advertising texts– Value knowledge Point (India): Volume 50000 words (English – Vietnamese)
* Kubota documents: 17000 words. Language pair: English – Vietnamese (for Sankou Inc – Japan)
*Cochlear devices and manual, English to Vietnamese for Cochlear company, 20000words
*Ethnic code_Semiconductor, English to Vietnamese: 10000words.
*BP Code of Conduct, English to Vietnamese: 10000 words for Global Lingo (UK)
*Mulitple healcare insurance documents for Cosmic Global (India) with the volume of 10000 words (English to Vietnamese)
*Government election documents and articles for Master Translation Service (China): 15000 words, English to Vietnamse
* Clinical research project for GVK Vio (India), ongoing, huge volume.
* Math website for children: http://starchildren.org. Volume: 30000 words (for Starchildren – USA)
* Review translation of Google apps for Translated.net, English to Vietnamese: 10000 word
* TouchPal marketing document - Shanghai LiYou translation (china): 20,000 words
* Automotive, operational documents and manuals for GM Vietnam, volume: more than 20000 words, English to Vietnamese
*Oil and gas specifications of devices sold to Vietsovpetro Vietnam by Viendong Marine and Petrol Engineering JSC and other documents related to petrochemical field.
* Tricyclic n-heteroaryl-carboxamide derivatives containing a benzimidazole unit, Method for preparing same and their therapeutic use: 21000 words. Language Pair: English – Vietnamese (for Tran. H. N & Associate Attorney Office)
*Painting procedures for ships: Volume: 30000 words. Language pair: English – Vietnamese (for Viendong Marine and Petrol Engineering JSC)
*Scada – Vinh Loc project – technical requirements for radar system: 7000 words. Language pair: Vietnamese – English (for Viendong Marine and Petrol Engineering JSC).
* Translation and revision of medical and life science text for CLS Singapore: Ongoing jobs (volume: greater than 200k words)
*Technical Proposal HRT: 10,000 words. Language pair: English – Vietnamese (CNN translation).
* Translation of legal, chemical, electric, general engineering documents from English to Vietnamese and vice versa for Tran. H. N & Associate Attorney Office.
* University related document for Professor Nguyen Thi Bich Thuy – lecturer of Hanoi University of Science and Technology, English to Vietnamese, volume more than 20k words.
* Some medical insurance documents: 10000 words. Language pair: English - Vietnamese. (for Qutubuddin- India)
*Facebook daily horoscope game, 18000 word from English to Vietnamese (work with Ms Hoang Mai Hoa)
* Crazy Teapot game on iPhone, English – Vietnamese, volume 10000words via Icanlocalize (USA)
*Universities Profiles – Volume: 15000 words from English to Vietnamese
* Nikon camera manual (collaborated with Mr. Nguyen Cong Dieu), English – Vietnamese, volume: 15000 words (ongoing)
* Translation of Construction project in Vung Tau for New Fantex Technology (Taiwan): Ongoing, Vietnamese to English.
*Petro-chemical documents serving for tenders of Viendong Marine and Petrol Engineering JSC, English to Vietnamese, volume: 10000 words.
* Many other types of documents for local firms
VI. References
Available upon request.
This user has earned KudoZ points by helping other translators with PRO-level terms. Click point total(s) to see term translations provided.